Người đó phân biệt
và đạt tới chỗ cuối của con đường.
Người đó không nấn ná với những người có nhà
không nấn ná với những người lạc lối không muốn gì,
Người đó du hành một mình.
Người đó không làm tổn thương cái gì.
Người đó chưa bao giờ giết hại.
Người đó đi với tình yêu giữa nơi không có tình, với an bình và tách rời
giữa những người đói và hay cáu kỉnh.
Giống như hạt mù tạc trên đầu mũi kim
hận thù đã rơi rụng khỏi người đó,
cùng thèm khát, đạo đức giả và kiêu căng.
Người đó không xúc phạm ai.
Vậy mà người đó nói chân lí.
Lời của người đó rõ ràng nhưng chưa bao giờ ác nghiệt.
Bất kì cái gì không phải của người đó
Người đó từ chối,
Tốt hay xấu, lớn hay nhỏ.
Người đó không muốn gì từ thế giới này và không muốn gì từ thế giới tiếp.
Người đó tự do.
Người chủ nhìn sâu vào mọi thứ và thấy bản chất của chúng.
Người chủ phân biệt
và đạt tới chỗ cuối của con đường.
Chỉ thầy mới có thể nhìn được bởi vì chỉ thầy mới có mắt. Không có thiền bạn mù. Bạn có thể thấy, nhưng chỉ những thứ bên ngoài nhất, chỉ bề mặt của mọi thứ, chỉ chu vi và không bao giờ thấy trung tâm. Bạn không thể xuyên thấu vào trong bản chất mọi thứ được. Và chân lí vẫn còn ẩn giấu tại chính cốt lõi.
Thiền cho thầy cái nhìn sáng suốt vào trong bản thân mình và cùng cái nhìn sáng suốt đó trở thành cây cầu của người đó với toàn thể sự tồn tại. Người đó không mù nữa. Chỉ con người của thiền mới không mù. Chừng nào bạn còn chưa đạt tới thiền, cứ coi bản thân mình là mù đi. Vâng, bạn có thể thấy, nhưng bạn chỉ có thể thấy cái bên ngoài. Và bản tính thực là ở bên trong bạn; nó là lãnh thổ bên trong của bạn, nó là tính chủ quan của bạn.
Bạn sống bên ngoài nhà của bản thể mình; bạn chưa bao giờ đi vào trong điện thờ bên trong nhất. Không biết tới bản thân mình, bạn chẳng biết gì cả. Và nếu bạn không biết ngay cả bản thân mình, bạn có thể biết cái gì khác được? Mọi điều bạn nghĩ bạn biết chỉ là suy diễn - không tri thức, không tri thức đích thực mà chỉ là phỏng đoán.
Mọi tri thức của bạn phụ thuộc vào phỏng đoán. Đôi khi nó có tác dụng bởi trùng hợp ngẫu nhiên, đôi khi nó không có tác dụng. Khi nó có tác dụng bạn nghĩ bạn rất thông minh, khi nó không có tác dụng bạn nghĩ số mệnh chống lại bạn. Nhưng bạn chưa bao giờ nhận ra sự kiện là bạn chưa có mắt để nhìn vào mọi thứ.
Hai người đi tầu hoả lần đầu tiên. Một người trong họ có một nải chuối. Anh ta mời anh bạn và bắt đầu bóc vỏ chuối cho mình. Vừa lúc đó, tầu hoả đi vào trong đường hầm.
"Anh đã thưởng thức chuối chưa?" người thứ nhất hỏi, rất tỉnh táo.
"Không, tôi chưa," người bạn anh ta đáp.
"Rồi, lạy trời đừng ăn nhé!" người thứ nhất nói. "Tôi cắn một miếng và trời tối mù."
Đây là tri thức của bạn là gì đó - chỉ suy diễn từ sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Mới hôm nọ tôi đã kể cho bạn một chuyện cười về anh chàng Polack tới New York để kiếm tên tuổi, tiếng tăm, tiền bạc, quyền lực, danh vọng. Anh ta nghe tiếng nói vọng tới từ trên trời, "Trèo lên tới thành công!" Chút ít ngần ngại, chút ít sợ hãi, anh ta cố; anh ta bắt đầu trèo lên chiếc thang, chiếc thang cao năm mươi tầng, từng bậc một. Anh ta len tới tận cùng và ở đó anh ta thấy một thanh niên nói, "Chào đằng ấy, tên tớ là Cess!" Và bạn có tin rằng đêm qua anh thanh niên này tới nhận tính chất sannyas! Trong cả đời tôi đây là lần đầu tiên một người có tên là Cess đã tới nhận tính chất sannyas! Tôi phải đã trao tính chất sannyas cho hơn trăm nghìn người; hàng nghìn John và Peter đã đến, nhưng Cess là lần đầu tiên! Và tôi nghĩ đó có thể là lần cuối cùng nữa.
Cuộc sống đầy những trùng hợp ngẫu nhiên; không có gì bí truyền về nó cả. Và anh ta trông đích xác như mô tả! Nhưng anh ta là người thông minh - anh ta muốn đổi tên mình.
Bạn cứ suy diễn. Suy diễn không phải là biết, suy diễn chỉ là phỏng đoán. Vâng, đôi khi nó có thể có tác dụng, nhưng thường thì nó thất bại. Việc biết là hoàn toàn khác; nó không bao giờ là phỏng đoán, nó là cái nhìn sáng suốt rõ ràng vào mọi sự, vào chính bản chất của mọi sự. Nhìn vào trong chính bản chất của mọi sự là toàn thể mục đích của thiền.
Thiền không phải là cái gì đó huyền bí, nó rất khoa học. Nó là quá trình lau sạch mắt bạn, cho bạn sự sáng tỏ, làm cho bạn tỉnh táo. Tâm trí bạn đầy những định kiến tới mức bạn không thể thấy được. Tâm trí bạn đầy những kết luận tiên thiên tới mức bất kì cái gì bạn thấy cũng đều được tô mầu bởi kết luận của bạn, bởi ước định của bạn. Quan sát của bạn không thuần khiết, nó bị ô nhiễm, nó bị đầu độc. Bạn không thấy cái gì là trường hợp, bạn cứ thấy điều bạn muốn thấy hay điều bạn được chuẩn bị để thấy hay điều bạn được ước định để thấy. Đây không phải là thấy thực.
Thiền nghĩa là loại bỏ mọi định kiến của bạn, gạt tất cả các kết luận của bạn sang bên - thấy mà không có cản trở nào, thấy mà không có màn che nào, thấy rõ ràng không có trung gian của bất kì ý nghĩ nào, thấy mà không có Phật đứng giữa bạn và thực tại, hay Krishna đứng hay Christ đứng.
Đó là lí do tại sao Phật tương truyền đã làm ra một phát biểu kì lạ nhất; chỉ người với tầm cỡ như Phật mới có thể nói điều đó. Ông ấy nói với các đệ tử của mình, "Nếu ông gặp ta trên đường, giết ta đi. Đừng cho phép ta đứng giữa ông và chân lí. Ngay lập tức giết ta, loại bỏ ta; bằng không ta sẽ là rào cản."
Thầy thực là người giúp đệ tử chung cuộc gạt bỏ cả thầy nữa, để cho đệ tử có thể đương đầu với thực tại một cách trực tiếp, ngay lập tức. Thầy giả là người tạo ra ngày càng nhiều phụ thuộc trong đệ tử, làm cho đệ tử thành nô lệ, nhiều tới mức đệ tử thậm chí không thể nghĩ được nếu không có thầy.
Đó là điều đang xảy ra trên khắp thế giới. Biết bao nhiêu cái gọi là thánh nhân cứ tạo ra phụ thuộc trong bạn; toàn thể nỗ lực của họ là làm sao làm cho mọi người thành nô lệ. Họ ước định bạn theo cách mà kết luận của họ trở thành kết luận của bạn. Họ không cho bạn đôi mắt, họ cho bạn ý tưởng.
Thầy thực cho bạn đôi mắt, không cho ý tưởng. Thầy cho bạn sáng suốt để nhìn vào thực tại và thế rồi bỏ bạn trong tự do toàn bộ để vận hành từ sáng suốt đó.
Phật nói:
Người đó nhìn sâu vào mọi thứ và thấy bản chất của chúng.
Người đó biện biệt
và đạt tới chỗ cuối của con đường.
'Biện biệt' là một trong những từ rất quan trọng cần được hiểu. Phật đã dùng từ này lặp đi lặp lại; từ của ông ấy là vivek. Vivek có nghĩa sâu hơn từ tiếng Anh 'discrimination-biện biệt' nhiều lắm. Vivek chứa nhận biết, và phân biệt qua nhận biết. Người ta có thể phân biệt mà không nhận biết; thế thì nó sẽ không phải là biện biệt theo Phật. Bạn có thể được bảo cái gì là đúng và cái gì là sai và bạn có thể phân biệt, "Cái này là đúng và cái này là sai," nhưng bởi vì nó không phải là nhận biết của bạn, nó không phải là biện biệt. Chừng nào bạn còn chưa thấy cái gì là đúng và cái gì là sai, điều đó sẽ không có ích gì mấy.
Mười lời răn không ích gì cho bạn chừng nào chúng không được trao cho bạn bởi bản thân Thượng đế, không phải là Moses. Chúng có thể có giá trị vô hạn với Moses bởi vì bản thân ông ấy đã đi tới sáng suốt đó, độc lập với toàn thể quá khứ, với toàn thể truyền thống. Nhưng bạn đơn giản lặp lại như vẹt.
Từ chính thời niên thiếu chúng ta bắt đầu dạy trẻ con cái gì là đúng và cái gì là sai, cái gì nên làm và cái gì không nên làm. Và chúng trở nên bị ước định nhiều tới mức chúng quên hoàn toàn rằng đây không phải là tiếng nói riêng của chúng. Chúng bắt đầu nghĩ đây là lương tâm của chúng - nó không phải vậy. Đó là chiến lược của các tu sĩ và chính khách, âm mưu chống lại con người. Họ đã tạo ra lương tâm trong bạn và bởi vì họ đã tạo ra lương tâm trong bạn, họ đã ngăn cản trưởng thành của lương tâm riêng của bạn. Lương tâm riêng của bạn tới từ tâm thức riêng của bạn; nó không thể tới từ bên ngoài được. Không ai có thể trao nó cho bạn được, nó phải xảy ra cho bạn trong sự một mình sâu sắc của bạn.
Phật nói: Thầy biết cái gì là giả và cái gì là đúng. Thầy biết theo thẩm quyền riêng của mình, không theo bất kì thẩm quyền nào khác. Thầy không biết tương ứng theo Koran và thầy không biết tương ứng theo Talmud, thầy không biết tương ứng theo Veda - thầy biết bản thân mình. Và chỉ khi bạn biết bản thân mình việc biết của bạn mới có tính hợp thức, tính đích thực - tính đích thực có thể làm biến đổi bạn, có thể cho bạn việc sinh thành mới.
Và thầy đạt tới chỗ cuối của con đường... Khoảnh khắc sáng suốt đích thực đã nảy sinh trong bạn, tâm thức của bạn được sinh ra, bạn được sinh ra. Đây là tái sinh. Bạn được sinh ra mới mẻ. Bạn đã đạt tới chỗ cuối của con đường, không có chỗ nào khác để đi. Bạn đã về tới nhà.
Người đó không nấn ná với những người có nhà
không nấn ná với những người lạc lối không muốn gì,
Người đó du hành một mình.
Ở Ấn Độ, mọi người bị phân chia thành hai loại; đây là phân chia truyền thống. Nó đã như vậy vào thời của Phật nữa, nó là phân chia rất cổ đại. Phật đang cố gắng làm phân biệt: ông ấy đang cố làm cho các đệ tử của mình thành loại thứ ba. Phân loại cũ, cổ đại là hai. Loại thứ nhất là phàn nhân, chủ hộ, người có nhà cửa. Họ được gọi là chủ hộ bởi lẽ đơn giản là họ sống trong dối trá về an ninh, an toàn - an toàn mà họ nghĩ tới qua tiền bạc, quyền lực, danh vọng, an ninh mà họ nghĩ tới từ các mối quan hệ. Vợ nghĩ cô ấy an toàn với chồng, chồng nghĩ anh ta an toàn với vợ, bố mẹ nghĩ họ an toàn với con họ. An toàn là dối trá bởi vì không gia đình, không tiền bạc, không cái gì khác của thế giới này có thể cứu bạn được khỏi cái chết.
Khi cái chết tới, nó làm tan nát mọi thứ; nó làm tan nát tất cả những lâu đài cát của bạn. Chủ hộ sống trong một loại thế giới mơ, thế giới của những phóng chiếu riêng của người đó. Điều đó không đúng, nó không tương ứng với thực tại; nó là phóng chiếu riêng của người đó. Vợ nghĩ chồng là an ninh của cô ấy và chồng nghĩ vợ là an ninh của anh ta. Bây giờ, cả hai đều không an ninh. Làm sao hai người không an ninh có thể cho nhau an ninh được? Hai người không an ninh trở thành không an ninh gấp đôi, nhưng dối trá được tạo ra.
Đây là phân loại thứ nhất: grihastha, chủ hộ.
Và phân loại thứ hai là về những người đã từ bỏ phân loại thứ nhất, người đã đi sang cực đoan khác - người không sống trong nhà, người không sống trong gia đình, người không kiếm tiền, người thậm chí không động tới tiền, người đã đi đích xác vào cực đoan đối lập. Họ được biết tới là sannyasin. Họ thường lang thang khắp nước theo các nhóm nhỏ hay lớn.
Sư Jaina không được phép đi một mình. Vào thời Phật đã có hàng nghìn sư Jaina bởi vì Jaina giáo đã tồn tại trong ít nhất ba nghìn năm trước Phật. Hàng nghìn sư Jaina - họ không được phép đi một mình, họ phải đi theo nhóm ít nhất là năm người, bởi lẽ đơn giản là người đi một mình không thể được tin cậy. Người đó có thể rơi vào lỗi lầm nào đó và, biết rằng không ai đi cùng mình, không ai biết, người đó có thể uống rượu ở đâu đó hay người đó có thể rơi vào tình yêu với người đàn bà hay người có thể đi và tới gái mãi dâm hay người đó có thể làm cái gì đó... Nhưng đi với bốn người khác điều đó là không thể được; bốn người kia thường xuyên theo dõi.
Cho nên đó là chiến lược để ngăn cản bất kì ai vào bất kì loại tự do nào, bất kì loại phóng túng nào - chiến lược tâm lí. Chừng nào tất cả năm người còn chưa quyết định thông đồng cùng nhau... và điều đó rất khó, điều đó gần như không thể được. Tội nhân được biết trở nên thân thiện với nhau, thánh nhân không được biết trở nên thân thiện với nhau. Họ không biết tình bạn là gì, họ không thể thông đồng được. Họ sẽ theo dõi, họ sẽ cố tìm mọi loại lỗi trong người khác và họ sẽ báo cáo với thầy. Và sư Hindu thường đi - ngay cả bây giờ họ vẫn làm thế - theo nhóm lớn hàng trăm người.
Phật nói: Ông đã bỏ gia đình nhỏ và bây giờ ông đã đi vào trong đám đông lớn hơn - ông đã trở thành gia đình khác. Không cái gì đã thay đổi. Đầu tiên bạn đã nghĩ đó là an ninh của bạn, bây giờ bạn nghĩ đây là an ninh của bạn, nhưng ý tưởng cũ về an ninh vẫn còn dai dẳng.
Ông ấy nói rằng là một sannyasin nghĩa là chấp nhận sự không an ninh tự nhiên của cuộc sống. Chính chấp nhận đó là tính chất sannyas - chấp nhận điều đó, "Mình được sinh ra một mình và mình sẽ chết một mình, và giữa hai cái một mình này mọi ý tưởng về việc ở cùng ai đó chỉ là tưởng tượng. Mình một mình ngay cả khi mình đang sống." Người ta được sinh ra một mình, người ta sống một mình, người ta chết một mình.
Phật nhấn mạnh rất nhiều vào sự kiện tính một mình của bạn; ông ấy muốn bạn nhận biết về điều đó. Một khi bạn nhận biết về nó bạn sẽ ngạc nhiên về cái đẹp của nó, về niềm vui của nó. Bạn sẽ không sợ hãi; bạn sẽ hân hoan trong nó bởi vì nó có tự do, nó có cực lạc trong nó, nó có thuần khiết và hồn nhiên trong nó. Và sao khao khát an ninh?
Cuộc sống là không an ninh trong chính bản chất của nó, do đó điều đơn giản logic: những người muốn sống động hơn, họ phải sống trong không an ninh. Không an ninh càng lớn, bạn sẽ càng sống động hơn; giả dối càng lớn, cái gọi là an ninh càng lớn, bạn sẽ càng ít sống động hơn.
Đó là lí do tại sao bạn thấy nhiều người chết thế trên thế giới, gần chết, bởi lẽ đơn giản là họ đã trở nên quá bị gắn bó với ý tưởng về an ninh. Và bạn càng chết nhiều, bạn càng an ninh hơn. Đừng làm điều gì có thể tạo ra bất kì không an ninh nào, vẫn còn bị giới hạn trong cái quen thuộc, thậm chí không đi ra ngoài các giới hạn này. Bạn sẽ không bao giờ biết cực lạc của việc đi ra ngoài các giới hạn. Bạn sẽ không bao giờ biết cực lạc của việc thám hiểm cái không biết và cái không thể biết.
Theo Phật, cả hai loại này đều là cùng người cả thôi. Tất nhiên họ là những người cực đoan và họ dường như đối lập nhau, nhưng đừng bị lừa. Họ không phải là đối lập thực đâu; họ đã tìm thấy các loại an ninh khác nhau.
Một sư Jaina đã viết cho tôi rằng ông ấy muốn tới đây. Ông ấy đã từng đọc sách của tôi và ông ấy muốn trở thành sannyasin của tôi, nhưng ông ấy sợ ông ấy sẽ mất mọi an ninh của mình bởi vì bây giờ cộng đồng Jaina bảo vệ ông ấy, nuôi dưỡng ông ấy, làm mọi chăm nom cho ông ấy, kính trọng ông ấy. Một khi ông ấy rời bỏ thân phận thầy tu, cộng đồng Jaina sẽ không bảo vệ ông ấy nữa.
Ông ấy hỏi tôi liệu tôi có sẵn sàng nắm cuộc sống của ông ấy trong tay tôi không, liệu tôi có là an ninh của ông ấy không. Bây giờ ông ấy muốn thay đổi từ an ninh này sang an ninh khác, ông ấy không thể lấy bước nhảy vào trong không an ninh. Và tính chất sannyas của tôi là không an ninh.
Tính chất sannyas thực bao giờ cũng không an ninh bởi vì cuộc sống thực là không an ninh. Có an ninh lớn trong việc không an ninh. Trong vứt bỏ chính ý tưởng về an ninh bạn là an ninh với cái toàn thể, với Thượng đế, với cái toàn bộ. Và có kích động lớn, bởi vì từng khoảnh khắc bạn không biết cái gì sẽ xảy ra.
Phật nói rằng thầy... không nấn ná với những người có nhà. Người đó không nấn ná với loại người thứ nhất, người bị ám ảnh bởi tiền, quyền và danh. Người đó không phí thời gian với những người này, người đó không nấn ná với những người không lành mạnh này.
Và ông ấy nói: ... không nấn ná với những người lạc lối - không với những người cứ lang thang khắp nước thành từng nhóm bởi vì đó là loại an ninh khác, loại tinh vi hơn, nhưng tâm trí là một. Người ta muốn thuộc vào, người ta không thể một mình được.
Ông ấy nói: không muốn gì, người đó du hành một mình - bởi vì thầy thực không có ham muốn, thậm chí không có ham muốn sống; do đó người đó không sợ chết. Người đó không có ham muốn trong thế giới này hay trong thế giới khác; do đó người đó không quan tâm tới việc tạo ra đủ mọi loại an toàn quanh bản thân mình. Người đó không quan tâm. Người đó có thể một mình, hoàn toàn một mình. Người đó không cố láu cá và tinh ranh với sự tồn tại; người đó tin cậy sự tồn tại.
Mọi người cố gắng rất tinh ranh với sự tồn tại, mặc dầu họ gọi tinh ranh của mình là thông minh. Họ bao giờ cũng đem cái tên hay cho những điều xấu. Nhìn vào cuộc sống của bạn mà xem, bạn đã từng cố gắng tinh ranh thế nào - ngay cả với sự tồn tại. Một mặt bạn sẽ đi tới nhà thờ và cầu nguyện, và mặt khác bạn đang cố gắng rất tinh ranh theo mọi cách có thể, tìm kiếm mục đích của bạn, hi sinh mọi người khác vì mục đích của bạn, không chăm nom tới bất kì ai, hoàn toàn không quan tâm, không có kính trọng, không tình yêu, không tôn kính cuộc sống. Và mặt khác bạn cứ cầu nguyện trong nhà thờ và đền chùa; điều đó nữa là một phần của cái tinh ranh của bạn. Bạn biết điều bạn đang làm trong cuộc sống của mình; để bù lại bạn đi nhà thờ mọi chủ nhật, hay bạn đi tới Kaaba...
Ít nhất một lần trong cuộc sống của mình mọi người Mô ha mét giáo được trông đợi đi tới Kaaba. Để làm gì? - để ăn năn về đủ mọi tội người đó đã phạm phải, để cho người đó có thể được tha thứ. Người Hindu đi tới sông Hằng nhiều lần nhất có thể được trong đời mình, chỉ để được ngâm mình vào trong sông Hằng bởi vì họ nghĩ sông Hằng rửa sạch cho bạn mọi tội lỗi của bạn. Bạn phạm tội và sông Hằng có trách nhiệm rửa sạch bạn khỏi mọi tội của bạn. Và điều gì sẽ xảy ra cho sông Hằng, nhận tội lỗi của nhiều người thế? Nó phải là dòng sông ô nhiễm nhất trên thế giới, ô uế nhất! Từng giọt nước sông Hằng phải đầy hàng triệu tội. Cho nên nhiều người Hindu trong nhiều nghìn năm đã từng rửa sạch tội lỗi của họ ở đó. Tránh sông Hằng ra! Cho dù ngẫu nhiên bạn tới gần sông Hằng, trốn đi nhanh nhất có thể được!
Có lần một người tới Ramakrishna; người đó đi tới sông Hằng để đầm mình, ngâm mình thiêng liêng. Người đó hỏi, "Paramahansadeva, thầy ban phúc lành cho tôi đi - tôi sắp đi để ngâm mình thiêng liêng. Thầy có cho rằng mọi tội của tôi sẽ được rửa sạch không?"
Ramakrishna là một người rất lễ phép. Ông ấy nói, "Tất nhiên, khi ông ngâm mình trong sông Hằng mọi tội lỗi bay ra khỏi ông; ông được tự do."
Người này nói, "Khi thầy nói điều đó, tôi tin cậy điều đó. Vậy thì đi là xứng đáng."
Ramakrishna nói, "Thì đáng đi, nhưng nhớ một điều: khi ông chìm vào trong sông Hằng rồi, đừng bước ra."
Người này nói, "Thầy nói gì vậy? Thầy có điên không? Tôi sẽ phải ra chứ, tôi không thể sống dưới nước lâu hơn vài giây!"
Ramakrishna nói, "Thế thì điều đó là vô tích sự bởi vì bất kì khi nào ông bước ra... ông có thấy những cây lớn mọc bên bờ sông Hằng không?"
Ông ta nói, "Có, tôi có thấy."
"Ông có biết mục đích và chức năng của chúng không?"
Ông ta nói, "Cái đó thì tôi không biết. Điều đó chẳng được nhắc tới trong bất kì kinh sách nào."
Paramahansadeva nói, "Tôi sẽ nói cho ông bí mật này. Khi ông ngâm mình, khi ông chìm vào sông, tội lỗi của ông phải rời khỏi ông bởi vì sự thuần khiết của sông Hằng, nhưng chúng ngồi trên cây đợi ông. Khi ông quay lại chúng nhảy lên ông! Và nguy hiểm là ở chỗ một số tội khác cũng có thể nhảy vào ông, những tội không phải của ông ngay chỗ đầu tiên. Cho nên phải rất tỉnh táo - nếu ông chìm vào sông, thế thì đừng ra nữa!"
Mọi người đã tìm ra những cách tinh ranh để tiếp tục cuộc sống của họ như chúng vẫn vậy. Mọi cái gọi là tôn giáo của bạn đều là những cách tinh ranh để né tránh Thượng đế, không để tìm ra Thượng đế.
Một thư kí trẻ trong một văn phòng điện tín lấy vợ và sau vài năm được lên làm bố. Anh ta chắc mẩm rằng đứa con sẽ là con trai. Tuy nhiên, anh ta muốn giữ mọi chuyện bí mật với bạn đồng nghiệp để cho anh ta có thể làm họ ngạc nhiên với tin rằng anh ta là bố của đứa con trai.
Khi việc sinh sắp xảy ra, anh ta đưa vợ về nhà bố cô ấy và bảo cô ấy đánh điện cho anh ta. Bức điện này, anh ta bảo cô ấy, phải chứa chỉ những từ sau: "Xe đạp đã tới," để cho anh ta biết rằng cô ấy đã sinh an toàn.
Khi thời gian chín muồi cô ấy cho sinh ra con gái. Vì bức điện tín, "Xe đạp đã tới," được dự định gửi chỉ sau khi sinh con trai, người vợ phải sửa để cho phù hợp điều phải làm. May mắn là anh cô ấy là người thông minh và anh ta đã gửi bức điện tín theo kiểu này: "Xe đạp đã tới với bánh trước bị xì hơi."
Bây giờ những người này được coi là thông minh. Đủ mọi loại người tinh ranh được coi là người thông minh. Và bạn phải quan sát tinh ranh riêng của mình. Tinh ranh không phải là thông minh; trí thức thậm chí cũng không phải là thông minh. Thông minh có hương vị hoàn toàn khác với trí thức. Thông minh là hương thơm của thiền - chỉ thầy mới thông minh.
Không muốn gì, người đó du hành một mình. Người đó có thể thấy rằng người chủ hộ đang sống trong phóng chiếu, trong thế giới phóng chiếu của riêng họ; và cái gọi là sư và ni đang sống trong phóng chiếu khác, nhưng nó lại là thế giới được phóng chiếu. Người đó đi một mình - điều đó không chỉ là hành động bên ngoài, nó cũng phải là cảm giác bên trong.
Một mình là điều nền tảng nhất cho thiền nhân - kinh nghiệm sự một mình, ngồi im lặng và chỉ là bản thân mình, chỉ ở cùng với bản thân mình, không khao khát bầu bạn nào, không khao khát người khác. Tận hưởng sự hiện hữu của mình, tận hưởng việc thở, tận hưởng nhịp tim đập. Tận hưởng hoà điệu bên trong, sự hài hoà. Tận hưởng chỉ cái bạn đang là, và hoàn toàn im lặng trong tận hưởng đó.
Mọi người tìm cả nghìn lẻ một cách để né tránh cái một mình này; có những cách thức trần tục và có những cách thức thế giới khác. Phàm nhân sẽ bắt đầu nghe radio hay người đó sẽ bật cái hộp xuẩn ngốc của mình lên - máy thu hình của họ. Người đó không thể một mình được. Và người thế giới khác, người tôn giáo, sẽ bắt đầu cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh. Người đó cũng làm cùng việc.
Bạn phải thường xuyên nhận biết rằng có những cách thức tôn giáo để né tránh bản thân mình nữa - cách thức phi tôn giáo, cách thức tôn giáo, đủ mọi cách sẵn có để né tránh bản thân mình. Người tôn giáo sẽ bắt đầu đối thoại với Thượng đế. Người đó sẽ bắt đầu cầu nguyện theo cách chính thức - lời cầu nguyện Ki tô giáo, lời cầu nguyện Trời, hay lời cầu nguyện Do Thái hay lời cầu nguyện Hindu - và người đó sẽ lẩm nhẩm mật chú, cũng giống như máy ghi âm, chẳng có nghĩa gì. Tất cả mọi điều người đó muốn là bận bịu. Tất cả mọi điều người đó muốn là bằng cách nào đó không cảm thấy một mình. Tất cả mọi điều người đó muốn là ở chỗ Thượng đế có đó: "Nếu không ai có đó thế thì ít nhất Thượng đế có đó; mình không một mình."
Toàn thể ý tưởng về Thượng đế như một người là hư cấu được tạo ra bởi những người không thể một mình được; do đó họ đã tạo ra Thượng đế. Khi không ai có đó, ít nhất Thượng đế bao giờ cũng có đó; bạn không cần lo nghĩ về điều đó, ngài ở mọi nơi. Để có cái hộp xuẩn ngốc bạn cần một số tiền và bạn không thể mang cái hộp xuẩn ngốc đó đi mọi nơi được, nhưng Thượng đế bao giờ cũng có đó theo bạn như cái bóng riêng của bạn. Ngài bao giờ cũng cùng với bạn. Ngay cả khi bạn đang trong nhà tắm ngài cũng không đủ quân tử để bạn đấy một mình; ngài tới cùng bạn. Bạn nằm trong bồn tắm trần truồng và ngài ngồi bên cạnh bạn. Ngài là một loại Tom Dò xét - ngài cứ nhìn vào bạn! Bạn làm tình với vợ bạn và ngài đứng đó; bạn thậm chí không cho phép ngài có chút quân tử. Không cần ngài là người Anh, nhưng nếu ngài có chút ít quân tử, chẳng có gì sai trong đó.
Ý tưởng này về Thượng đế được tạo ra từ sợ hãi - sợ một mình. Khi bạn nhắm mắt lại bạn một mình, nhưng Thượng đế có đó. Ngay cả trong bản thể bên trong của bạn ngài vẫn dai dẳng, ngài cứ nhất định ở đó. Đây là bạo hành! Nhưng không có Thượng đế - đó là ý tưởng của bạn thôi.
Điều đó cũng giống như khi bạn một mình và đi vào trong đường tối trong đêm hay bạn bị lạc đường trong rừng và bạn bắt đầu huýt sáo, chỉ để làm bản thân mình hăng hái lên. Bây giờ điều đó là ngu xuẩn. Nó là việc huýt sáo của bạn, chẳng có ai khác, nhưng ngay cả điều đó cũng giúp đỡ. Nó có ích về tâm lí. Bạn bắt đầu huýt sáo, bạn bắt đầu hát, lầm bầm - quên mất rằng bạn một mình, quên mất rằng bạn bị lạc.
Mọi lời cầu nguyện của bạn đều không là gì ngoài việc huýt sáo trong bóng tối.
Phật không thiên về lời cầu nguyện. Và khác biệt này phải được hiểu: ông ấy tuyệt đối thiên về thiền, nhưng không bao giờ thiên về lời cầu nguyện nào. Lời cầu nguyện lại là thủ đoạn cũ, trò chơi cũ không cho phép bạn một mình. Thiền là nghệ thuật của việc ở một mình. Ông ấy nói: Không muốn gì, người đó du hành một mình.
Một mình không phải là đơn độc, nhớ lấy điều đó. Một mình không phải là ẩn dật, nhớ lấy điều đó. Một mình là tình trạng một mình. Nó cực kì đẹp; nó là hồn nhiên bởi vì không có gì làm ô nhiễm nó, không có gì quấy rối nó, sao lãng nó. Nó là tĩnh lặng thuần khiết, nó là im lặng. Nó có âm nhạc của riêng nó.
Một khi bạn đã nghe thấy âm nhạc của cái một mình riêng của mình, bạn sẽ không thích âm nhạc nào khác. Thế thì mọi âm nhạc khác chỉ là tiếng ồn; dù được bài trí hay bao nhiêu, nó cũng chỉ là tiếng ồn.
Người đó không làm tổn thương cái gì.
Người đó chưa bao giờ giết hại.
Điều không thể được với người đó là làm tổn thương hay giết hại, bởi vì bây giờ người đó biết rằng người đó không tách rời khỏi sự tồn tại, rằng không có ai khác cả. Tất cả đều là một, đó là một đơn vị hữu cơ. Chúng ta tất cả đều là sóng của cùng một đại dương. Làm tổn thương con sóng khác là làm tổn thương bản thân bạn. Điều đó cũng giống như đánh vào tay bạn, tay này đánh tay kia. Điều đó là ấu trĩ, điều đó là không lành mạnh. Đôi khi trẻ nhỏ làm điều đó. Nếu cái bàn làm chúng đau, chúng đánh mạnh vào bàn; chúng lại bị đau hơn, nhưng chúng thích thú. Chúng nghĩ chúng đang trừng phạt bàn.
Bất kì khi nào bạn trừng phạt ai đó bạn đang trừng phạt bản thân mình. Bất kì khi nào bạn hành hạ ai đó bạn đang hành hạ bản thân mình - bởi vì không có ai khác cả. Thầy biết điều đó. Đó không chỉ là niềm tin cho người đó, đó là kinh nghiệm của người đó. Đạt tới trung tâm riêng của mình người đó đã đạt tới trung tâm của toàn thể sự tồn tại.
Điều nền tảng này phải được nhớ: rằng khi có liên quan tới chu vi chúng ta tất cả đều khác nhau, nhưng khi có liên quan tới trung tâm chúng ta chỉ có một trung tâm. Một trung tâm đó bạn có thể gọi là Thượng đế hay chân lí hay niết bàn.
Người đó đi với tình yêu giữa nơi không có tình,
với an bình và tách rời giữa những người đói và hay cáu kỉnh.
Người đó đi với tình yêu giữa nơi không có tình... Công việc của ông ấy là khó khăn. Ông ấy đang nói cho các bồ tát của mình, làm cho họ nhận biết về gian truân của công việc của họ. Nó sẽ không dễ dàng, nó sẽ không rẻ rúng, bởi vì người thức tỉnh phải đi vào trong những người đang ngủ say. Người có mắt phải sống cùng những người không có mắt. Trao đổi trở thành không thể được. Người đó nói điều này, họ hiểu cái gì đó hoàn toàn khác. Người đó cố giúp họ và họ cảm thấy bị xúc phạm. Người đó cố gắng theo mọi cách có thể được để cứu họ, nhưng họ nghĩ rằng người đó đang cố khai thác họ hay cái gì đó.
Mới mấy ngày trước, một người bạn từ Đức tới đã nhận tính chất sannyas. Tên anh ấy là Richard; tôi đã gọi anh ấy là Veet Richard. Richard nghĩa là "cứng rắn"; tên tiếng Đức giống như thế. Kì lạ, rằng tất cả các cái tên Đức tôi bắt gặp, hoặc chúng có nghĩa là "cứng rắn" hoặc chúng có nghĩa là "mạnh mẽ" hay chúng có nghĩa là "nam tính" hay chúng có nghĩa là "khoẻ như gấu" hay chúng có nghĩa là "bước đi của chó sói " - Wolfgang. Tôi bảo anh ấy, "Vượt ra ngoài cái cứng rắn của bạn đi. Veet nghĩa là vượt ra ngoài. Trở thành mềm mại, trở nên ít tính Đức đi một chút."
Và mới hôm nọ anh ấy đã viết một câu hỏi, nói, "Trong khi thầy cho tôi tính chất sannyas tôi đã nhìn vào vai thầy và tôi không thể tin được rằng 'Người này là thầy mình.'" Bây giờ, vai tôi có liên quan gì tới việc là thầy của tôi hay không? Đây là cái gì đó mới! Tôi đã bắt gặp hàng nghìn định nghĩa về thầy là gì, nhưng không Phật không Lão Tử không Zarathustra không Jesus, không ai đã từng nói gì về vai cả! Và anh ấy nhìn vào vai tôi, không nhìn vào mắt tôi - tôi đã yêu cầu anh ấy nhìn vào mắt tôi.
Nhưng đây là cách mọi sự là vậy. Khi bạn đi cùng những người đang ngủ say họ có ý tưởng riêng của họ. Thế thì, Veet Richard, đi tới Muhammad Ali đi! Tìm lực sĩ ngu xuẩn nào đó làm thầy bạn đi. Và bây giờ tôi tự hỏi - bất kì điều gì tôi đã nói với anh ấy, liệu có đáng nói với anh ấy không? Tôi đã đơn giản phí thời gian của tôi và thời gian của anh ấy. Không có khả năng nào cho bất kì trao đổi nào. Anh ấy đang trong thế giới riêng của mình; có thể anh ấy đang tìm Adolf Hitler hay ai đó khác. Tôi không phải là Adolf Hitler và tôi không là Muhammad Ali, nhưng anh ấy phải đang mang ý tưởng nào đó...
Mọi người đều mang ý tưởng nào đó - những ý tưởng kì lạ mọi người đang mang. Và tôi không thể hoàn thành được ý tưởng của bạn. Bạn không có tình thế và tôi cứ rót tình yêu của tôi lên bạn và dường như không có đáp ứng nào.
Mọi người viết cho tôi những bức thư xấu tới mức nếu bạn đi tới biết về những bức thư đó bạn sẽ đơn giản choáng. Bạn sẽ không có khả năng tin vào điều đó. Một người đàn bà mới hôm nọ đã viết, "Hoặc ông là thằng điên hoặc ông là thằng ngu!" Thưa bà, tôi không thể cùng là cả hai được sao? Có mâu thuẫn nào không? Không phải tất cả kẻ ngu đều điên, đúng, không phải mọi người điên đều ngu, đúng, nhưng có vài người cùng là cả hai. Tôi thuộc vào loại thứ ba đó. Và chắc chắn tôi phải điên rồi; bằng không sao tôi phải làm việc trên bạn? Và tôi phải là kẻ ngu rồi, tôi phải là kẻ ngu chứ; bằng không tôi đã không điểm đạo cho bà này vào tính chất sannyas. Bạn không thuộc vào chỗ này.
Nhưng vấn đề là, mọi người tới trong giấc ngủ, không có tình, và họ không thể thấy được giấc ngủ của họ, họ không thể thấy được cái không có tình của họ, họ không thể thấy được định kiến của họ.
Biết bao nhiêu câu hỏi đã tới từ các quí bà Anh và quí ông Anh nói rằng, "Quí bà Anh chỉ là huyền thoại và thầy không nên quan tâm thế tới huyền thoại. Nó không phải là thực tại - quí bà Anh không tồn tại ở đâu cả." Những cùng những người này lại tin rằng người Polack tồn tại, người Italy tồn tại, người Do Thái tồn tại; họ không phải là huyền thoại... bởi vì khi tôi kể chuyện cười về người Do Thái hay người Italy hay người Polack không quí bà hay quí ông người Anh nào viết cho tôi rằng đây là huyền thoại - chúng đều là thực tại.
Bây giờ, không người Do Thái nào, không người Italy nào, không người Polack nào viết thư cho tôi rằng quí bà Anh là huyền thoại. Sao chỉ người Anh viết thư cho tôi về điều đó? Bạn không thể thấy ra vấn đề sao? Và nếu nó là huyền thoại - và tôi biết nó là huyền thoại! - sao không tận hưởng nó? Sao trở nên lo nghĩ nhiều thế về nó? Ở đâu đó sâu bên dưới bạn tin nó không phải là huyền thoại, bằng không thì tại sao? Cứ cười to và nó chấm dứt!
Nhưng mối bận tâm của bạn làm tôi nhận biết về sự kiện là quí bà Anh không tồn tại... Tôi biết điều đó! Tôi được bao quanh bởi các quí bà Anh! Tôi có nhiều quí bà Anh quanh mình hơn tôi có người Do Thái hay người Polack hay người Italy. Tôi biết nó là huyền thoại - nhưng huyền thoại hay!
Và một điều rất tốt về quí bà Anh: họ không bao giờ làm bạn thất vọng bởi vì từ chính lúc đầu họ là cái hộp-a băng-a. Điều đó phải được nói theo cách ca ngợi họ. Quí bà Italy bắt đầu bằng cái hộp-a xinh-a; chung cuộc, cuối cùng, bạn tìm ra, nhưng thế thì quá trễ rồi, rằng cô ấy không phải là cái hộp-a xinh-a, cô ấy là cái hộp-a băng-a. Nhưng quí bà Anh từ chính lúc ban đầu là rõ ràng; cô ấy chưa bao giờ làm thất vọng bất kì ai. Cô ấy thật thà, chân thành. Nếu bạn muốn cái hộp-a băng-a, đó là trách nhiệm của bạn.
Phật nói: Người đó đi với tình yêu giữa nơi không có tình... Vâng, thầy phải đi vào giữa những người Polack và người Italy và người Do Thái, người Anh và người Pháp... và thầy phải đi cùng những người không biết gì về tình yêu, mặc dầu tất cả họ đều tin họ yêu. Và tình yêu của thầy khác biệt tới mức bạn không thể hiểu được tình yêu của thầy đâu. Tình yêu của thầy rất mát mẻ; với bạn nó dường như lạnh nhạt bởi vì bạn chỉ biết hai loại, lạnh nhạt hay nồng nhiệt. Bạn không biết loại thứ ba: mát mẻ, không lạnh không nóng.
Mát mẻ không phải là lạnh, nhớ lấy. Thầy không bao giờ lạnh nhạt, nhưng chắc chắn thầy không nồng nhiệt. Bạn biết tình yêu nồng nhiệt, đam mê, cường tráng, và bạn biết tình yêu đã chết, đã trở thành lạnh lẽo - hộp-a băng-a- mọi thứ đã trở thành đông cứng, nó là cái xác. Nhưng bạn không biết khả năng thứ ba: mát mẻ của tình yêu và tươi tắn của mát mẻ đó. Và mát mẻ có phẩm chất ngược đời trong nó. Nếu bạn so sánh nó với lạnh lẽo, thế thì nó là mát mẻ; nếu bạn so sánh nó với nồng nhiệt, thế thì nó là ấm áp. Nó đích xác ở giữa nơi ấm áp và mát mẻ là một. Thầy có ấm áp, cái chính là mát mẻ và có mát mẻ, cái chính là ấm áp, nhưng điều đó là rất khó hiểu cho những người sống trong cực đoan.
Người đó đi với tình yêu giữa nơi không có tình, với an bình và tách rời... Người đó yêu nhưng người đó không bao giờ bị gắn bó, và bạn không thể hiểu được tình yêu mà không bị gắn bó. Với bạn yêu và gắn bó bao giờ cũng được liên kết; bạn không thể nào giữ chúng tách rời được. Với bạn, yêu bao giờ cũng là gắn bó; gắn bó càng sâu, bạn càng nghĩ nó là tình yêu. Nhưng tình yêu của thầy là hoàn toàn tách rời. Thầy yêu, vậy mà thầy không bị nó trói buộc. Thầy yêu, nhưng thầy không trói buộc vào bạn. Bạn biết tình yêu tạo ra kích động. Tình yêu của thầy là hoàn toàn an bình; không có kích động. Nó không có liên quan gì tới lãng mạn cả.
Người đó đi… giữa những người đói... Những người bao giờ cũng ham muốn nữa, Phật gọi họ là người đói, thường xuyên đói. Họ cứ tọng vào bản thân mình đủ mọi thứ và họ chưa bao giờ được thoả mãn. Cơn đói của họ là không thể hết được, cơn khát của họ là không thể dịu đi được. Bạn càng cho nhiều, họ càng muốn nhiều. Họ chưa bao giờ biết ơn.
Và hay cáu kỉnh. Và, tất nhiên, khi họ bao giờ cũng khao khát thêm nữa, họ cãi lộn lẫn nhau. Thầy chưa bao giờ càu nhàu, thầy chưa bao giờ đói. Thầy đầy hài lòng, hoàn toàn hài lòng, tuyệt đối hài lòng. Thầy đã đạt tới! Thầy không đòi hỏi cái gì. Do đó sự việc trở thành ngày một khó hơn cho bạn hiểu thầy.
Giống như hạt mù tạc trên đầu mũi kim hận thù đã rơi rụng khỏi người đó,
cùng thèm khát, đạo đức giả và kiêu căng.
Điều quan trọng nhất cần nhớ là: những điều này đã rơi rụng khỏi thầy. Thầy đã không vứt bỏ chúng, chúng đã rơi rụng đi. Nếu bạn vứt bỏ chúng, chúng sẽ treo quanh bạn. Thầy đã không kìm nén chúng, thầy đã siêu việt lên trên chúng - và khác biệt là lớn lao. Nếu bạn kìm nén chúng, chúng bao giờ cũng sẽ ở cùng bạn. Nếu bạn kìm nén khao khát nó sẽ lan toả sâu xuống bên trong bản thể bạn như ung thư. Nếu bạn kìm nén đạo đức giả bạn sẽ tạo ra một loại đạo đức giả sâu hơn, có vậy thôi. Nếu bạn kìm nén tự kiêu bạn sẽ trở thành kẻ bản ngã ngoan đạo.
Cẩn thận về nó đi. Hàng triệu người bị lừa bởi điều này bởi vì kìm nén là dễ dàng, bất kì ai cũng có thể làm được nó. Nó không cần thông minh; nó chỉ cần chút ít ngu xuẩn bướng bỉnh, bạn phải khăng khăng và bạn phải ép buộc cái gì đó ở bên trong bản thân mình. Bạn phải đặt sức ép lên nó, bạn phải ngồi lên nó. Nhưng thế thì bạn sẽ gặp rắc rối. Nó bao giờ cũng có đó sôi lên, sẵn sàng bùng nổ bất kì khoảnh khắc nào.
Ba tu sĩ - một tổng giám mục, một giám mục và một tu sĩ khá trẻ, mới được phong chức - đứng trong tiền sảnh ở sân bay. Tổng giám mục bảo tu sĩ lấy vé trong khi họ trông hành lí.
Tu sĩ lại quầy bán vé, chú ý tới người đàn bà trẻ ăn mắc cám dỗ, quyến rũ đằng sau quầy. Lúc cô ta đi quanh tu sĩ, anh ta hoàn toàn bị si mê với cô ta và lắp bắp, "Tôi muốn mua ba vé đi Tittsburgh."
Bối rối và xấu hổ, anh ta chạy từ quầy về hai bạn đồng hành. Anh ta kể cho tổng giám mục, "Cha ơi, con lấy làm tiếc, con không thể lấy được vé. Hơn nữa, con đã phạm tội rồi... Con đã bị xác thịt cám dỗ!"
Tổng giám mục nói, "Con còn trẻ, con ta, và yếu đuối - chúng ta sẽ cầu nguyện cho vấn đề của con."
Tổng giám mục phái giám mục đi mua vé. Giám mục, mặc dầu không dễ dàng bị lay động niềm tin của mình, cũng hoàn toàn bị xao động bởi cái đẹp của người đàn bà trẻ. Ông ta nói với cô ấy, "Tôi phải xin lỗi về người em trẻ của tôi - anh ta còn trẻ. Bây giờ, tôi muốn mua ba vé đi Pittsburgh và tôi muốn tiền trả lại là núm vú và hào."
Bị choáng bởi lỡ lời của mình và hoàn toàn bị lúng túng tràn ngập, ông ta quay về với tổng giám mục mà không có vé.
Tổng giám mục bây giờ rất bực mình với cả hai tu sĩ và người đàn bà trẻ. Thế rồi ông ta đích thân đi lấy vé. Ông ta nói, "Tôi muốn mua ba vé đi Pittsburgh và tôi muốn tiền trả lại là nickel và hào."
Khi người đàn bà trẻ bắt đầu làm vé, tổng giám mục nói, "Nhìn vào cô... cô phải xấu hổ chứ. Làm sao cô dám bỏ nhà theo cách đó? Tại sao, vú cô không được che đậy và váy của cô hoàn toàn quá ngắn. Mọi đàn ông lại gần cô đều bị cám dỗ. Khi cô lên cõi trời," ông ta nói, với giọng ngân lên cao, "Thánh Finger chắc chắn sẽ lay thánh Peter vì cô!"
Điều đó nhất định xảy ra. Do đó phật nói: Giống như hạt mù tạc trên đầu mũi kim hận thù đã rơi rụng khỏi người đó... Thầy đã không vứt bỏ nó hay kìm nén nó; nó đã rơi rụng theo cách riêng của nó... cùng thèm khát, đạo đức giả và kiêu căng.
Làm sao phép màu này xảy ra rằng những điều này rơi rụng đi theo cách riêng của chúng? Chúng rơi rụng đi theo cách riêng của chúng nếu bạn trở nên nhận biết hơn về chúng - không kìm nén mà nhận biết biết là cần thiết. Kìm nén làm cho chúng vô ý thức hơn và nguy hiểm hơn. Trở nên có ý thức hơn về chúng đi, quan sát chúng, thiền về chúng đi. Và khi bạn trở nên ngày một có khả năng quan sát mọi loại ý nghĩ trong tâm trí bạn, bạn sẽ trở nên ngày một tách rời khỏi chúng. Bạn sẽ đi tới biết rằng người quan sát là tách rời khỏi cái được quan sát, rằng chúng có đó như giao thông trên đường và bạn chỉ là khán giả. Chúng chẳng liên quan gì tới bạn, chúng không phải là một phần của bản thể bạn. Kìm nén chúng và chúng trở thành một phần của bản thể bạn. Kìm nén chúng và bạn trở nên ngày càng bị chúng kiểm soát. Bạn sẽ vẫn còn sợ cả đời mình nếu bạn kìm nén bất kì cái gì. Kìm nén tạo ra sợ hãi, bởi vì bạn biết nó có đó - bất kì cơ hội nào và nó có thể nảy sinh lần nữa.
Cách tiếp cận của tôi cũng là vậy: không kìm nén cái gì - quan sát. Không cái gì phải bị kìm nén, mọi thứ đều phải được quan sát. Chỉ bởi việc có tính quan sát mọi sự bắt đầu rơi rụng theo cách riêng của nó. Và thế thì có cái đẹp bởi vì im lặng tới với bạn, tĩnh lặng tới với bạn mà không bị ép buộc, không phải trau dồi.
Người đó không xúc phạm ai. Vậy mà người đó nói chân lí. Lời của người đó rõ ràng nhưng chưa bao giờ ác nghiệt.
Người đó không xúc phạm ai - người đó không thể thế được bởi vì mọi bạo hành đã biến mất khỏi người đó - nhưng người đó nói chân lí. Nếu chân lí xúc phạm bạn, thế thì người đó bất lực. Không có ý định xúc phạm bạn, nhưng nếu bạn sống trong dối trá thế thì chân lí xúc phạm. Về điều đó thầy không thể làm được gì, thầy phải nói chân lí. Thực tế, người đó chỉ nói chân lí; bằng không người đó không quan tâm tới việc nói gì với bạn.
Đứa trẻ sơ sinh rất yên tĩnh. Nó không bao giờ khóc hay cười khúc khích hay nói "Mẹ" hay "Bố."
Khi nó được ba tuổi, bố mẹ bắt đầu lo nghĩ, cứ tưởng nó có thể chẳng bao giờ nói được gì.
Cuối cùng, khi đứa trẻ lên bẩy, nó bỗng nhiên nói.
Họ đang ngồi ăn trưa thì nó nói, "Không đủ mặn."
"Trời ơi!" mẹ nó kêu lên. Thế rồi bà ta hỏi, "Sao trong bẩy năm con không bao giờ nói ra một lời?"
"Dạ," đứa trẻ nói, "mãi cho tới bây giờ mọi sự đều ổn cả!"
Thầy chỉ nói nếu cái gì đó sai; bằng không thầy giữ yên tĩnh, thầy vẫn còn im lặng. Thầy chỉ nói nếu cái gì đó sai. Nhưng điều đó có thể làm tổn thương bạn, điều đó có thể xúc phạm bạn. Chỉ ra cái gì đó sai với bạn dường như là xúc phạm bạn. Bạn thích được ca ngợi, không bị phê phán. Bạn thích được ủng hộ, không bị phê phán. Bạn thích rằng dối trá của mình nên được hỗ trợ, không bị phá huỷ. Nhưng về điều đó thầy không thể làm gì được. Thầy phải làm tan tành dối trá của bạn, thầy phải đem chân lí tới sự chú ý của bạn. Nếu chân lí gây tổn thương, thế thì đó là vấn đề khác; bằng không, thầy sẽ không có ý định gây tổn thương bất kì ai. Lời của người đó rõ ràng nhưng chưa bao giờ ác nghiệt.
"Bữa tiệc nhà Bà Hasting thế nào?" Quận công Peter được hỏi.
Với thoáng nhìn đãng trí, xa xăm trong mắt, ông ấy nói, "Có súp ấm như rượu, có rượu cổ như gà, có gà mềm như trinh nữ và có trinh nữ sẵn lòng như quí bà, nó đã là bữa tiệc lớn!"
Thầy sẽ không nói quanh co thế. Thầy sẽ đơn giản nói nó rõ ràng, mặc dầu thầy không ác nghiệt. Nhưng thầy có thể có vẻ ác nghiệt với bạn - đó là vấn đề của bạn. Thầy bao giờ cũng hiền dịu, và nếu đôi khi thầy có vẻ ác nghiệt với bạn, suy ngẫm về điều đó đi, tại sao thầy có vẻ ác nghiệt với bạn. Có thể cái gì đó ở bên trong bạn bắt đầu giày vò, cái đó bắt đầu gây đau. Có thể có vết thương bên trong bạn mà bạn đã che giấu và thầy đánh vào vết thương đó. Thầy phải đánh vào vết thương của bạn. Thầy phải kéo mủ ra khỏi bản thể bạn. Điều đó gây đau. Thầy là nhà giải phẫu.
Bản thân Phật đã nói đi nói lại: Ta không phải là người thuyết giảng mà là thầy chữa.
Bất kì cái gì không phải của người đó Người đó từ chối,
Tốt hay xấu, lớn hay nhỏ.
Điều đó đích xác là định nghĩa của thiền theo Phật và theo các chư phật khác nữa. Quan sát tâm trí bạn, và bất kì cái gì không phải là của bạn, dù nó tốt hay xấu, lớn hay nhỏ, đừng bị đồng nhất với nó, đừng chấp nhận nó, cứ từ chối.
Ở phương Đông phương pháp này được gọi là - ngay cả trước Phật nó đã được gọi là - neti, neti, không cái này không cái nọ. Cứ nói rằng "Mình không là cái này, mình không là cái này, mình cũng không là cái kia." Cứ bác bỏ bên trong bản thể bạn bất kì cái gì bạn có thể quan sát, bạn không là nó.
Dần dần, dần dần khử bỏ tất cả những cái bạn không là, một ngày nào đó duy nhất cái còn lại là bạn. Ngày đó là ngày của hân hoan lớn lao. Thế thì người quan sát quay về bản thân mình. Không cái gì khác để quan sát, nó bắt đầu quan sát bản thân mình. Không cái gì khác để nhìn, nó bắt đầu nhìn bản thân mình. Đó là khoảnh khắc bạn trở thành người thấy. Đó là khoảnh khắc trí huệ của bạn bùng nổ. Đó là khoảnh khắc khi bóng tối biến mất và chỉ có ánh sáng và ánh sáng và không cái gì khác.
Người đó không muốn gì từ thế giới này và không muốn gì từ thế giới tiếp.
Người đó tự do.
Một khi bạn biết rằng tất cả những cái tâm trí chứa đều không phải là bạn, tất cả những cái tâm trí khắc hoạ đều không phải là bạn, tất cả những cái tâm trí khao khát đều không phải là bạn, bạn trở nên tự do.
Dần dần, dần dần ham muốn biến mất. Thấy rằng tất cả ham muốn về căn bản đều chấm dứt trong thất vọng, thấy nó theo cách riêng của bạn - không phải bởi vì tôi nói nó hay Phật nói nó - thấy nó theo cách riêng của bạn, ham muốn bay hơi. Bạn được bỏ lại không có ham muốn nào và không có khói của ham muốn. Ngọn lửa của nhận biết của bạn bùng cháy sáng, và tự do là hương thơm của việc nở hoa nhận biết đó.
Bình thường chúng ta sống như robot. Bình thường chúng ta sống một cách máy móc. Chúng ta không có ý thức chút nào, mặc dầu chúng ta tin rằng chúng ta có ý thức. Chúng ta không có ý thức chút nào. Và bởi vì chúng ta không ý thức, nếu chúng ta vứt bỏ ham muốn thế giới này, thế thì chúng ta bắt đầu ham muốn cái gì đó trong thế giới khác. Điều đó tuyệt đối khôi hài.
Nhìn cái gọi là thánh nhân và mahatma ham muốn cùng điều họ đã vứt bỏ ham muốn trong thế giới này, nhưng bây giờ họ đang ham muốn cùng điều đó ở thế giới khác... Người Mô ha mét giáo tin rằng trong thiên đường của họ có những dòng suối rượu. Bây giờ điều này dường như rất phi logic! Ở đây rượu là tội lỗi và ở đó nó là phần thưởng - phần thưởng cho mọi đức hạnh của bạn. Và bạn không phải đi tới quán rượu - suối chảy mọi nơi! Ở đây đàn bà là địa ngục và đàn bà phải bị từ bỏ, còn ở kia...?
Trong thiên đường Hindu đàn bà đẹp có sẵn, bao giờ cũng trẻ trung, kẹt lại ở mười sáu tuổi; họ không trưởng thành ra ngoài điều đó. Thực tế, tôi bao giờ cũng tự hỏi làm sao họ tới được mười sáu tuổi! Họ phải được sinh ra mười sáu tuổi từ bụng mẹ. Vì thế thì họ đã không lớn lên. Và họ có thân thể bằng vàng - vàng khối, dường như vậy! Và không phải là vàng Mĩ đâu, lưu tâm vào, vàng ròng, vàng hai mươi bốn carat! Và mắt họ được làm bằng ngọc lục, ngọc lục thuần khiết. Và thân thể họ không vã mồ hôi tất nhiên rồi, làm sao họ có thể vã mồ hôi được? Nếu thân thể họ được làm bằng vàng khối thì không thể nào vã mồ hôi được. Họ có thể tan chảy trong nhiệt độ, nhưng họ không thể vã mồ hôi!
Ở đây đàn bà phải bị từ bỏ. Và kinh sách Hindu nói: Đàn bà là cánh cửa xuống địa ngục. Và ở kia các mahatma được cung cấp các apsaras đẹp, đàn bà đẹp. Đây là cái loại vô nghĩa gì vậy?
Và cùng điều đó là trường hợp cho mọi tôn giáo. Bởi vì vào thời của Mohammed khi Koran được viết ra, đồng dục là rất thịnh hành ở các nước A rập, việc cung cấp được thực hiện cho cả những nam đồng dục nữa! Trong thiên đường của người Mô ha mét giáo không chỉ đàn bà đẹp có sẵn mà con trai đẹp cũng có sẵn nữa. Họ chưa bao giờ mọc râu mép, họ bao giờ cũng còn như cũ - trẻ trung. Bây giờ ở đây, trong mọi nước Mô ha mét giáo, đồng dục là một trong những tội lớn nhất. Người đồng dục phải bị chặt đầu, cái chết là hình phạt. Bạn không thể thấy cái ngớ ngẩn này sao? Trong thiên đường bạn sẽ được cung cấp đủ loại con trai đẹp! Tôi không chống lại đồng dục, tôi đơn giản chống lại cái ngớ ngẩn này. Điều đó hoàn toàn tốt, hào phóng - nhưng thế thì sao bạn lại chống nó ở đây?
Đó là tâm trí ngu xuẩn, vô ý thức của con người. Người đó sẵn sàng buông bỏ cái gì đó trong thế giới này, nhưng thế rồi người đó đi sang cực đoan kia.
Người đó bỏ nó ở đây, người đó từ bỏ nó ở đây, và người đó bắt đầu yêu cầu nó ở cõi bên kia - vẫn cùng điều đó. Vấn đề không thay đổi. Từ một vấn đề này người đó chuyển sang vấn đề khác, từ một ham muốn này sang ham muốn khác.
Một người đàn bà Italy béo tốt, tròn mông tới văn phòng bác sĩ cùng chồng mình. "Chồng tôi không ỉa- a!" cô ấy kêu lên.
Bác sĩ cho cô ấy một chai nhỏ dầu gan cá, nói, "Đưa cho anh ấy đêm nay và anh ấy sẽ khỏi ngày mai."
Nhưng hôm sau người đàn bà quay lại và nói, "Chồng tôi không ỉa-a!"
Thế là bác sĩ cho cô ấy một cái chai to hơn với cùng chỉ dẫn.
Ngày hôm sau người đàn bà lại trở lại: "Chồng tôi không ỉa-a!"
Bác sĩ cuối cùng cho cô ấy một chai dầu gan cá khổng lồ. Ngày hôm sau người đàn bà lại quay lại.
"Bác sĩ ơi, bác sĩ ơi," cô ấy kêu, "không còn chồng nữa, chỉ cứt-a!"
Nhưng vấn đề còn lại; bây giờ nó là cực đoan khác.
Người tìm kiếm chân lí phải rất quan sát không đi từ nhà tù này sang nhà tù khác, từ ham muốn này sang ham muốn khác. Người đó phải rất tỉnh táo và nhận biết. Người đó phải tự hoá giải tự động hoá cho mình.
Người đó phải trở thành con người, không tiếp tục như cái máy. Bạn được sinh ra như cái máy, và chừng nào bạn còn chưa làm nỗ lực lớn, bạn sẽ vẫn còn là cái máy và bạn sẽ chết đi như cái máy. Làm mọi nỗ lực để trở nên nhận biết sao cho bạn không còn là máy nữa đi. Thế thì con người thực được sinh ra.
Một chàng cao bồi miền Tây hoang dã mua một con ngựa của một tu sĩ địa phương. "Con ngựa này rất đặc biệt," tu sĩ giải thích. "Khi anh hô, 'Lạy trời' con ngựa này sẽ bắt đầu phi như điên và cách duy nhất dừng nó lại là nói, 'Amen!'"
Ngay lập tức người này nhảy lên lưng ngựa và hô, "Lạy trời!"
Anh ta bắn đi như tên ngang qua sa mạc. Bỗng nhiên anh ta trở nên nhận biết về hẻm núi dốc đứng đằng trước mình. "Chết tiệt! Mình quên mất lệnh kia rồi," anh ta nói. "Mình sẽ làm cách nào để làm chậm con ngựa điên này lại?"
Nguyền rủa và chửi thề, anh tiến tới hẻm núi dốc đứng, và vào khoảnh khắc cuối anh ta nhớ ra: "Amen!" Và ngay trên hẻm núi con ngựa đứng im.
Run rẩy và được nhẹ người, nước mắt trào ra từ mắt, chàng cao bồi nhìn lên trời và nói, "Lạy trời!"
Đủ cho hôm nay.