Chương 6. Tôi một mình là đủ


Câu hỏi thứ nhất - câu hỏi của Somendra:
Osho kính yêu, điều gì xảy ra cho tiếng nói của tôi khi thầy nói với tôi? Ý đồ là gì?
Điều gì xảy ra khi thầy nói với tôi?
Tôi có tưởng tượng không? Làm sao tôi có thể tin cậy điều tôi cảm thấy với thầy?
Thầy có cái gì mà tôi không có?
Thầy muốn ngụ ý gì khi nói rằng con người là cái máy?
Tôi có tất cả những cái tôi muốn và tôi cảm thấy trái tim tôi đang tan vỡ.
Tại sao tôi luôn luôn sợ ý kiến người khác? Khi thầy cho tôi tên... để phục vụ tình yêu. Lời cầu nguyện có thể có hại không?
Khi bạn thực sự trong giao cảm với tôi, bạn không thể nói được. Khi bạn thực sự lắng nghe tôi, bạn sẽ mất tiếng nói của mình, bởi vì trong khoảnh khắc đó tôi là tiếng nói của bạn. Giao cảm xảy ra giữa tôi và bạn không phải là giữa hai người. Đấy không phải là thảo luận, đấy không phải là tranh luận, đấy không phải là biện luận, đấy thậm chí không phải là đối thoại. Giao cảm xảy ra chỉ khi bạn đã mất đi, khi bạn không có đó. Tại đỉnh cao nhất đấy thậm chí không phải là mối quan hệ "tôi-bạn". Đấy không phải là mối quan hệ chút nào. Tôi không có đó, và với bạn cũng sẽ đến một khoảnh khắc bạn không có đó. Trong khoảnh khắc đó hai cái không biến mất vào trong nhau.
Đó là lí do tại sao, Somendra này, bất kì khi nào bạn đến tôi, bạn đều mất tiếng nói của bạn. Và điều ấy không chỉ xảy ra cho bạn đâu, nó xảy ra cho tất cả những ai thực sự tới gần tôi hơn. Làm sao bạn có thể tới gần tôi hơn mà vẫn giữ tiếng nói của bạn được? Làm sao bạn có thể ở gần tôi mà vẫn là chính bạn được? Tiếng nói của bạn là tiếng nói của bạn. Khi cái 'bạn' bắt đầu biến mất thì tự nhiên tiếng nói cũng bắt đầu biến đi.
Thứ hai là, có gì để nói đâu. Khi bạn đang trong tình yêu với tôi thì bạn biết rằng nếu có gì đó cần nói, tôi sẽ biết. Và nếu tôi không biết điều đó, thế thì nó không đáng nói ra, thế thì nó chẳng cần; thế thì nó phải là ý nghĩ không liên quan, ý nghĩ vẩn vơ. Nó thậm chí không cần thốt ra, nó sẽ là lãng phí năng lượng.
Tâm trí cuốn theo cả nghìn lẻ một ý nghĩ từ mọi chốn, từ mọi nguồn. Tất cả các ý nghĩ của bạn đều không phải của bạn; các ý nghĩ cứ nhảy từ đầu người này sang đầu người khác; ngay cả không nói gì, ngay cả không được chuyển vận, các ý nghĩ vẫn liên tục nhảy từ đầu người này sang đầu người khác. Bạn chộp bắt chúng, và trong một chốc bạn bị ý nghĩ đó sở hữu và bạn nghĩ đấy là cái gì đó bản chất. Khi bạn đến với tôi, bỗng nhiên những ý nghĩ mà bạn đã chộp bắt từ người khác bị tan biến đi.
Điều đó xảy ra cho nhiều sannyasin. Họ đến sẵn sàng với nhiều câu hỏi, và rồi, chỉ có ngồi trước tôi, họ đâm lúng túng, các câu hỏi đó biến mất. Điếu đó là có ý nghĩa lắm, có nghĩa. Nó chứng tỏ rằng những câu hỏi đó không phải là của bạn, chúng không thực sự của bạn. Khi bạn ở trước tôi - thực sự ở trước tôi - khi bạn đang nhìn vào tôi, chỉ có những cái là bản chất mới còn lại; cái không bản chất sẽ ra đi. Đôi khi tất cả các ý nghĩ của bạn có thể biến mất: không chỉ việc bạn mất tiếng nói, bạn mất cả tâm trí mình nữa. Và đấy là cách duy nhất để ở quanh thầy. Cứ mất đi tâm trí của bạn. Ý nghĩ chùng xuống, thảnh thơi, không căng thẳng. Chẳng có gì để nói cả. Có nhiều thứ để nghe nhưng chẳng có gì để nói cả.
Và rồi, điều thứ ba, mọi thứ vẫn ổn thoả với Somendra. Chúng ta chỉ nói những thứ mà chúng không ổn thoả. Tôi đã từng nghe...
Người mẹ cứ phàn nàn với nhiều bác sĩ về việc không nói được của đứa con năm tuổi của mình. Các xét nghiệm đều cho thấy đứa trẻ rất khoẻ mạnh và người ta bảo bà mẹ đừng có lo lắng. Thế nhưng bà ấy cứ lo lắng không yên. Một hôm, trong lúc vội vã, bà làm cháy món cháo yến mạch nhưng vẫn dọn cho cậu con ăn. Nó nếm thử món cháo, phun phì phì ra rồi nói, "Úi trời, món này kinh quá. Mẹ làm cháy nó rồi."
Thích quá, bà mẹ nói, "Con nói đấy! Sao trước đây con chẳng nói gì cả?"
Đứa trẻ khinh khỉnh nhìn mẹ và nói, "Ồ, mọi thứ đều ổn thoả từ trước tới giờ!"
Và mọi thứ cũng ổn thoả cả cho tới nay đối với Somendra. Chẳng có gì cần nói cả.
Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu, trong khi thăm một viện bảo tàng nghệ thuật ở Frankfurt gần đây, tôi đã vào một phòng chẳng có gì ngoài tượng và hình khắc Phật. Tôi hoàn toàn không tin vào các thần tượng bằng đá, nhưng tôi ngạc nhiên cảm thấy một luồng năng lượng rất mạnh trong phòng, tương tự như điều tôi cảm thấy ở đây trong bài giảng này. Tôi có tưởng tượng ra điều ấy không? Và nếu có thì làm sao tôi có thể tin cậy điều tôi cảm thấy ở đây với thầy?
Câu hỏi này là từ Anand Samagra. Điều đầu tiên cần được hiểu: tượng Phật chẳng có gì liên quan gì đến Phật Gautam cả, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết; chúng tất cả đều là giả. Chúng không giống Phật chút nào, nhưng chúng có cái gì đó liên quan tới phật tính - không với Phật Gautam, con người đó, chúng có cái gì đó liên quan tới phật tính.
Bạn có thể đi vào một đền Jaina giáo và bạn sẽ thấy hai mươi bốn bức tượng tirthankaras, những người sáng lập đạo Jaina, và bạn sẽ không thể nào phân biệt được khác biệt giữa chúng; tất cả chúng đều giống nhau. Để phân biệt, người Jaina tạo ra các biểu tượng nhỏ trên họ để biết ai là ai, bởi vì tất cả họ đều giống nhau. Cho nên nếu biểu tượng của ai đó là một hình nét thì ngay ở mặt dưới bàn chân là hình nét đó; thế thì họ biết được đấy là tượng của ai. Biểu tượng của ai đó là con rắn, họ biết đấy là tượng của ai. Nếu những biểu tượng này được giấu kín, ngay cả người Jaina cũng không thể phân biệt được ranh giới - đây là tượng của ai? Của Mahavira? Của Parswanatha? Của Adinatha? Và bạn cũng sẽ ngạc nhiên khi biết rằng chúng đều giống hệt Phật - không khác biệt.
Lúc ban đầu, khi người phương Tây trở nên quen biết với Mahavira, họ nghĩ đấy chẳng là gì ngoài cùng một câu chuyện về Phật, bởi vì bức tượng là một, triết lí là một, cách hiểu là một, giáo huấn là một. Cho nên đấy chỉ là cùng một thứ, chẳng có gì khác với Phật; họ nghĩ Mahavira là cái tên khác của Phật. Và tất nhiên cả hai đều được gọi là phật - 'phật' có nghĩa là 'người thức tỉnh'. Cho nên Phật đã được gọi là Phật còn Mahavira cũng được gọi là Phật. Và cả hai đều được gọi là jina - 'jina' có nghĩa là 'người chinh phục', người đã chinh phục được bản thân mình. Phật được gọi là 'người chinh phục' còn Mahavira cũng được gọi là 'người chinh phục', cho nên họ nghĩ đấy là cùng một người. Và bức tượng là bằng chứng lớn; chúng tuyệt đối giống nhau. Chúng không phải là ảnh chụp của nhau, chúng không biểu thị cho một người; chúng biểu thị cho trạng thái nào đó. Bạn sẽ phải hiểu điều này, thế thì mọi việc sẽ được giải thích.
Trong tiếng Ấn Độ ba từ sau rất quan trọng: một là mật tông tantra, từ chúng ta đang nói tới, từ thứ hai là mật chú mantra, và từ thứ ba là mật hình yantra. Mật tông có nghĩa là các kĩ thuật để trải rộng tâm thức của bạn. Mật chú có nghĩa là tìm ra âm thanh bên trong của bạn, nhịp điệu bên trong của bạn, rung động bên trong của bạn. Một khi bạn đã tìm được câu mật chú của mình, nó sẽ cực kì có ích: chỉ một lần thốt ra câu mật chú là bạn đã trong một thế giới hoàn toàn khác. Điều đó trở thành chìa khoá, thành bước chuyển, bởi vì một khi thốt ra câu mật chú đó, bạn rơi vào rung động tự nhiên của mình. Và từ thứ ba là mật hình. Những bức tượng này là các mật hình. Mật hình có nghĩa là một hình nào đó có thể tạo ra một trạng thái nào đó trong bạn. Một hình nào đó, nếu bạn nhìn vào nó, nhất định sẽ tạo ra một trạng thái nào đó trong bạn.
Bạn chưa quan sát điều đó sao? Khi nhìn vào bức tranh của Picasso bạn sẽ bắt đầu cảm thấy một chút không thoải mái. Tập trung vào bức tranh của Picasso khoảng nửa giờ và bạn sẽ cảm thấy rất lạ kì - cái gì đó đang trở thành điên dại. Bạn không thể nhìn vào bức tranh của Picasso trong nửa giờ. Nếu bạn để bức tranh của Picasso trong phòng ngủ bạn sẽ gặp cơn ác mộng, bạn sẽ có những giấc mơ rất nguy hiểm: bị ma ám, bị Adolf Hitler tra tấn và những thứ đại loại như vậy; nạn nhân chiến tranh trong trại tập trung - những thứ đại loại như vậy.
Khi bạn ngắm cái gì đó, đấy không chỉ là hình ảnh bên ngoài; khi bạn ngắm cái gì đó, hình này tạo ra một tình huống nào đó trong bạn. Gurdjieff quen gọi điều này là 'nghệ thuật mục đích'. Và bạn biết nó: lắng nghe nhạc pop hiện đại, cái gì đó xảy ra trong bạn; bạn trở nên bị kích động dục. Chẳng có gì ngoài âm thanh bên ngoài, nhưng âm thanh này dội vào bên trong, tạo ra cái gì đó trong bạn. Lắng nghe nhạc cổ điển bạn trở nên ít dục tình hơn, ít kích động hơn. Trong thực tế với nhạc cổ điển vĩ đại bạn gần như quên mất dục; bạn trong yên tĩnh, im lặng, một chiều hướng hoàn toàn khác của bản thể bạn. Bạn tồn tại trên một bình diện khác.
Ngắm tượng Phật là nhìn vào một mật hình. Hình của bức tượng, hình học của bức tượng, tạo ra một hình bên trong bạn. Và hình bên trong đó tạo ra một rung động nào đó. Đấy không phải là tưởng tượng xảy ra cho bạn, Samagra này, trong bảo tàng ở Frankfurt; những bức tượng Phật đó đã tạo ra rung động nào đó bên trong bạn.
Ngắm bức tượng Phật đang ngồi im lặng đến thế trong tư thế yoga mà xem: nếu bạn tiếp tục ngắm bức tượng đó, bạn sẽ thấy cái gì đó tựa như cái đang xảy ra bên trong bạn nữa. Nếu bạn ở trong một toán mà có mười người đang buồn và bạn là người thứ mười một, bạn có thể duy trì niềm hạnh phúc được bao lâu? Mười người kia sẽ vận hành tựa như một mật hình, một mật hình buồn; chẳng chóng thì chầy bạn sẽ rơi vào buồn. Nếu bạn bất hạnh mà bạn nhập vào một nhóm mọi người đang vui đùa cười nói, bạn giữ được nỗi buồn trong bao lâu? Những người cười nói này sẽ tạo ra tiếng cười trong bạn. Họ sẽ thay đổi sự tập trung của bạn, họ sẽ sang số cho bạn; bạn sẽ bắt đầu chuyển sang chiều hướng khác. Điều này xảy ra hàng ngày - dù có chủ ý hay không chủ ý.
Khi bạn ngắm trăng tròn, điều gì xảy ra cho bạn? Hay khi bạn lắng nghe chim hót và nhìn cây xanh, điều gì xảy ra cho bạn? Khi bạn đi vào rừng và nhìn cây cỏ, điều gì xảy ra cho bạn? Cái gì đó xanh tươi bên trong bắt đầu xảy ra. Mầu xanh lá cây là mầu của tự nhiên, mầu xanh ấy là mầu của thanh thoát, mầu xanh ấy là mầu của cuộc sống; cái gì đó xanh tươi bắt đầu xảy ra bên trong bạn. Mầu bên ngoài phản ánh cái gì đó bên trong, làm rung động cái gì đó bên trong, tạo ra cái gì đó bên trong. Nhìn lên cây xanh bạn trở nên sống động hơn... bạn trở nên trẻ trung hơn!
Khi bạn đi lên đỉnh Himalayas và bạn thấy núi non, chóp núi tuyết phủ... tuyết vĩnh viễn chẳng bao giờ tan chảy, tuyết thuần khiết nhất nơi không người nào bước tới, không bị nhiễm bẩn bởi sự đụng chạm của xã hội và con người; khi bạn nhìn lên đỉnh Himalayas, tuyết trong trắng và không bụi bặm tạo ra cái gì đó trong trắng trong bạn. An bình tinh tế bắt đầu xảy ra bên trong.
Bên ngoài không phải là bên ngoài và bên trong cũng chẳng chỉ là bên trong, chúng đang gắn với nhau. Cho nên nhận biết điều bạn thấy, nhận biết điều bạn nghe, nhận biết điều bạn đọc, nhận biết nơi bạn đi - bởi vì tất cả đều tạo ra bạn.
Đó là điều đã xảy ra ở Frankfurt. Các bức tượng Phật, nhiều bức tượng quanh bạn đã tạo ra một hình học tinh tế. Bạn sẽ ngạc nhiên: đó là lí do cơ bản tại sao tượng được tạo ra; chúng không phải là thần tượng như bạn vẫn nghĩ. Tư tưởng của người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và người Do Thái đã cho một khái niệm rất sai về thế giới. Tượng không phải là thần tượng, tượng rất khoa học. Tượng không phải là các vật để thờ phụng, tượng là hình học để được hấp thụ. Đó là một điều hoàn toàn khác.
Ở Trung quốc có một đền thờ Phật với mười nghìn tượng Phật - tất cả đều là tượng Phật; bất kì khi nào bạn nhìn, đều cùng một khuôn mặt. Trần cũng cùng khuôn mặt, tất cả các phía đều cùng khuôn mặt, tường cũng có cùng khuôn mặt. Mười nghìn tượng Phật! Hình dung xem, ngồi bắt chéo chân theo tư thế Phật và bạn còn được mười nghìn Phật bao quanh! Điều ấy tạo ra hình học. Từ mọi nơi Phật đều tác động vào bạn. Từ mọi xó xỉnh và ngóc ngách ông ấy đều bao trùm quanh bạn. Bạn mất đi; hình học bình thường của bạn không còn đó nữa, cuộc sống bình thường của bạn không còn đó nữa. Trong vài khoảnh khắc bạn đang chuyển lên những bình diện cao hơn, ở các vĩ độ cao hơn.
Đó cũng là điều đang xảy ra ở đây. Trong khi bạn lắng nghe tôi, cái gì đó được tạo ra - bởi sự hiện diện của tôi, bởi lời nói của tôi, bởi thái độ của bạn, bởi bao nhiêu người áo da cam quanh bạn. Đấy là tình huống, đấy là ngôi đền. Ngôi đền là một tình huống; nó không chỉ là chỗ bạn ngồi trong thính phòng này. Bao nhiên người đang lắng nghe tôi với tình yêu, lòng biết ơn đến thế, với im lặng đến thế, với thông cảm đến thế, với hoà hợp đến thế... chỗ này trở nên linh thiêng. Chỗ này trở thành tirtha; nó là chỗ thiêng liêng. Khi bạn tới chỗ này là bạn đang cưỡi trên một con sóng, bạn không cần nỗ lực nhiều. Bạn có thể đơn giản cho phép nó xảy ra. Bạn sẽ được đưa đi xa, xa sang bờ bên kia.
Một bà mối đã dàn xếp với một gia đình để thuyết phục một cô gái mà bà ta cho là xứng đôi phải lứa nhất với đứa con trai của họ. Sau bữa tối người con gái cáo từ ra về và cả gia đình bắt đầu xúm vào chất vấn bà mối.
"Bà đưa đứa con gái kiểu gì vậy hả? Một con quỉ cái! Một mắt giữa trán, tai trái vểnh lên, tai phải cụp xuống, cằm thì vẹo ra sau!"
Bà mối ngắt lời, "Này, các ông bà thích Picasso hay không thích!"
Hội hoạ hiện đại biểu diễn cái xấu trong sự tồn tại. Cái xấu trở thành trội hơn bởi một lí do nào đó. Thế kỉ này là một trong những thế kỉ xấu nhất: hai cuộc chiến tranh thế giới trong vòng năm mươi năm, hàng triệu người bị giết, bị tiêu diệt... tàn bạo thế, hung tợn thế, bạo hành thế, điên rồ thế. Thế kỉ này là thế kỉ ác mộng. Con người đã lạc lối nhân đạo. Con người đã làm biết bao điều tàn ác với con người! Một cách tự nhiên điên khùng này bùng ra mọi nơi - trong hội hoạ, trong âm nhạc, trong điêu khắc, trong kiến trúc - mọi nơi tâm trí xấu xa của con người đã tạo ra xấu xí.
Xấu xí đã trở thành giá trị thẩm mĩ. Bây giờ các nhà nhiếp ảnh đi tìm cái gì đó xấu xí. Không phải vì cái đẹp đẽ không còn tồn tại nữa; nó vẫn tồn tại nhiều như trước, nhưng nó bị lãng quên. Cây xương rồng đã thay thế cho hoa hồng. Không phải vì xương rồng là cái gì đó mới mẻ; nó bao giờ cũng tồn tại, nhưng thế kỉ này đã đi tới biết rằng gai dường như thật hơn hoa hồng. Hoa hồng dường như là giấc mơ; nó không thích hợp với chúng ta, do đó hoa hồng đã bị trục xuất. Xương rồng đã bước vào phòng khách của bạn. Mới chỉ một trăm năm trước đây chẳng ai nghĩ tới việc đem xương rồng về nhà. Bây giờ nếu bạn là người hiện đại vườn bạn phải đầy những xương rồng. Hoa hồng trông hơi tư sản; hoa hồng trông hơi cổ hủ; hoa hồng trông như thành viên đảng Bảo thủ, chính thống, truyền thống. Xương rồng trông có vẻ cách mạng. Vâng, xương rồng là cách mạng - giống Adolf Hitler, Josef Stalin, Mao Trạch Đông và Fidel Castro. Vâng, xương rồng dường như gần gũi với thế kỉ này hơn.
Nhà nhiếp ảnh đi tìm một vật gì đó xấu xí; người đó sẽ đi và chụp ảnh người ăn mày. Không phải vì người ăn mày trước đây chưa từng có; người đó đã tồn tại từ trước; người đó là thật, chắc chắn thật, nhưng không ai làm nghệ thuật về người đó. Chúng ta cảm thấy khiêm tốn trước người ăn mày, chúng ta cảm thấy biết lỗi trước người ăn mày, chúng ta cảm thấy rằng cái gì đó không nên có vẫn còn đó; chúng ta muốn không còn có người ăn mày nữa. Nhưng thế kỉ này vẫn cứ đi tìm cái xấu xí.
Mặt trời vẫn chiếu xuyên qua rặng thông và mỗi sáng. Tia sáng xuyên qua lá thông tạo ra cái đẹp kì ảo... Nó vẫn tồn tại, nhưng chẳng nhà nhiếp ảnh nào quan tâm; nó không còn quyến rũ nữa. Cái xấu quyến rũ bởi vì chúng ta đã trở thành xấu xí. Cái hấp dẫn chúng ta chứng tỏ cái gì đó về chúng ta.
Phật là một bông hoa hồng, đó là khả năng cao nhất. Và nhớ, Phật không giống hoàn toàn như trong ảnh ông ấy; chẳng ai biết Phật trông như thế nào. Nhưng đấy không phải là vấn đề. Trong những ngày ấy chúng ta đã không quan tâm - ít nhất ở phương Đông không quan tâm - chúng ta không quan tâm tới cái 'thực' chút nào, chúng ta quan tâm tới cái thực tối thượng. Chúng ta không quan tâm tới sự kiện, chúng ta quan tâm tới bản thân chân lí.
Có thể Phật có mũi dài hơn một chút, nhưng nếu người nghệ sĩ nghĩ rằng mũi nhỏ hơn một chút sẽ hài hoà hơn với thiền, người đó sẽ vứt cái mũi dài đó của Phật, người đó làm cho nó bé đi chút xíu. Có thể Phật có bụng to, ai mà biết được? Tượng Phật ở Nhật bản có bụng phệ, nhưng Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ - các thái độ thật khác nhau.
Ở Nhật người ta nghĩ rằng thiền nhân phải thở từ bụng, từ rốn. Và khi bạn thở từ bụng dĩ nhiên bụng phải lớn hơn một chút. Thế thì ngực không nhô ra như bụng, ngực được thảnh thơi. Cho nên Phật ở Nhật có bụng phệ. Điều đó nữa cũng bởi một lí do nào đó: để chỉ cho bạn rằng thở bụng mới là thở đúng. Điều đó chẳng có liên quan gì tới Phật cả; chẳng ai biết được ông ấy có bụng phệ hay không.
Các tượng Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ, bởi vì yoga Ấn Độ không nhấn mạnh vào thở bụng: bụng phải lép. Điều ấy nữa cũng có một lí do khác nào đó. Nếu bạn muốn năng lượng dục chuyển lên, tốt hơn cả là đừng thở bụng. Khi bụng được lép vào năng lượng bị hút lên dễ dàng hơn - các kĩ thuật khác.
Việc thở bụng cũng tốt cho thiền nhân nào đó; nó rất thảnh thơi. Nhưng rồi năng lượng không thể chuyển theo cùng cách như nó vẫn chuyển khi bụng lép vào. Các tượng Phật ở Ấn Độ đều có bụng lép - gần như không có bụng. Chẳng ai biết đích xác Phật trông như thế nào. Các tượng đều rất nữ tính, rất tròn trĩnh; chúng không có vẻ gì nam tính cả.
Bạn đã bao giờ thấy bức tượng nào có ria và râu không? - không. Người vẽ Jesus thực tế hơn. Người vẽ Phật không quan tâm nhiều tới hiện thực, họ chỉ quan tâm tới chân lí tối thượng. Họ không quan tâm tới việc Phật được trông như thế nào, họ chỉ quan tâm tới việc phật nên trông như thế nào. Nhấn mạnh không phải là vào Phật mà là vào người sẽ nhìn vào các bức tượng đó - làm sao cho tượng này sẽ giúp được cho những người đó.
Cho nên Phật không được vẽ như ông già. Ông ấy đã phải trở nên già yếu, ông ấy đã đến tám mươi hai... chắc chắn là ông ấy rất già, rất già và ốm yếu. Một thầy lang đã phải liên tục đi theo ông ấy. Nhưng chẳng có tượng nào được sơn vẽ về ông ấy lúc già, lúc ốm, bởi vì rằng đấy không phải là vấn đề. Chúng ta không quan tâm tới thân thể vật lí của Phật, chúng ta chỉ quan tâm tới hình học bên trong của ông ấy; phẩm chất bên trong đó của Phật bao giờ cũng trẻ trung, nó không bao giờ già cỗi. Và nó chẳng bao giờ ốm yếu, nó bao giờ cũng trong trạng thái mạnh khoẻ; bởi chính bản chất của nó, nó không thể ốm yếu được. Thân thể trẻ, thân thể già, thân thể trở nên hư hỏng, thân thể chết. Phật không sinh, không bao giờ diệt; Phật vẫn còn trẻ vĩnh viễn. Khi nhìn vào bức tượng trẻ trung cái gì đó của tuổi trẻ sẽ nảy sinh trong bạn và bạn sẽ cảm thấy cái gì đó tươi tắn.
Bây giờ người Ấn Độ chẳng bao giờ thích Jesus được chụp ảnh, được vẽ, được tạc tượng trên cây thánh giá. Điều đó xấu, điều đó buồn bã. Cho dù điều đó mang tính lịch sử thì điều đó cũng chẳng đáng nhớ, bởi vì bất kì cái gì bạn nghĩ tới thì đã xảy ra rồi, bạn định giúp cho nó xảy ra lần nữa. Chẳng có gì bắt buộc phải hướng về sự kiện: chúng ta không mắc nợ điều gì với quá khứ, chúng ta không cần phải nhớ quá khứ hệt như nó đã xảy ra. Vấn đề trong tay chúng ta để chọn quá khứ - chọn quá khứ theo cách để tương lai tốt hơn có thể được tạo ra.
Vâng, Jesus đã bị đóng đinh, nhưng nếu ông ấy bị đóng đinh ở Ấn Độ thì chúng ta sẽ không vẽ điều đó. Ngay cả trên cây thánh giá chúng ta cũng sẽ vẽ một thứ hoàn toàn khác. Bức vẽ phương Tây về Jesus trong đau đớn, trong buồn thảm - một cách tự nhiên thôi, ông ấy đã bị giết chết. Khi bạn ngắm nhìn, khi bạn tập trung, thiền về Jesus, bạn sẽ cảm thấy buồn.
Không phải ngẫu nhiên mà người Ki tô giáo nói rằng Jesus chẳng bao giờ cười. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà bạn không được phép nhảy múa, cười đùa vui vẻ trong nhà thờ. Nhà thờ là công việc nghiêm chỉnh: bạn phải rất nghiêm chỉnh... mặt dài ra. Trong thực tế khi Jesus bị đóng đinh ở đó trên ban thờ, làm sao bạn có thể cười và hát được? Ở Ấn Độ bạn có thể hát và cười, vui vẻ. Tôn giáo là hớn hở, lễ hội.
Toàn bộ vấn đề là ở chỗ tâm trí phương Tây mang tính lịch sử, tâm trí phương Đông mang tính tồn tại. Phương Tây chú trọng quá mức vào các sự kiện trần tục, phương Đông chẳng bao giờ để ý tới lịch sử. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng mãi cho tới khi người phương Tây đến Ấn Độ, người Ấn Độ đã chẳng biết gì đến những cái như lịch sử. Chúng ta chưa bao giờ viết sử, chúng ta chưa bao giờ bận tâm về nó. Đó là lí do tại sao chúng ta không biết đích xác khi nào Phật ra đời, đích xác khi nào ông ấy chết. Chúng ta chẳng bao giờ đặt nhiều kính trọng vào sự kiện. Sự kiện là trần tục: có thành vấn đề gì liệu ông ấy được sinh ra vào ngày thứ hai hay thứ ba hay thứ năm? Vấn đề là gì, vấn đề như thế nào? Trong thực tế điều đó chẳng thành vấn đề chút nào; ngày nào cũng được và năm nào cũng được. Đấy không phải là điểm chính yếu. Điều chính yếu là: Ai được sinh ra? Ai là con người này trong cốt lõi bên trong nhất?
Lịch sử nghĩ về ngoại vi, huyền môn nghĩ về cốt lõi bên trong nhất. Ấn Độ đã viết về huyền môn nhưng không viết về lịch sử. Chúng ta có puranas; puranas là huyền môn, chúng không phải là lịch sử. Chúng là thơ ca, cách nhìn huyền bí về mọi thứ nên là thế nào, không phải là việc chúng là thế nào. Chúng là cái nhìn tới điều tối thượng. Và Phật là cái nhìn tới samadhi tối thượng.
Những bức tượng Phật đó bạn thấy ở bảo tàng Frankfurt là những bức tượng về im lặng bên trong. Khi một người tuyệt đối im lặng, người đó sẽ trong trạng thái đó. Khi mọi thứ yên tĩnh và im lặng, bình thản bên trong - không một ý nghĩ khởi lên, không một ngọn gió thoảng qua; khi mọi thứ đã dừng lại, thời gian đã dừng lại - bạn sẽ cảm thấy việc ngồi tựa vị phật. Cái gì đó cùng kiểu hình học sẽ xảy ra cho bạn. Đó là nghệ thuật mục đích - ít liên quan tới thực tại của Phật, nhưng liên quan nhiều tới những người sẽ tới và sẽ tìm kiếm phật tính. Nhấn mạnh là khác nhau: điều gì sẽ xảy ra cho những người ngắm bức tượng và sẽ quì xuống trước những bức tượng đó và sẽ suy tư về những bức tượng này?
Ở Ấn Độ có những đền như Khajuraho trong đó có đủ loại tư thế làm tình được tạc tượng. Nhiều tư thế ngớ ngẩn đến mức ngay cả de Sade hay von Sacher-Masoch cũng không thể nào tưởng tượng ra được chúng. Người truỵ lạc nhất cũng không thể tưởng tượng được ra như thế. Chẳng hạn, đàn ông và đàn bà đứng trên đầu và làm tình - dường như là chẳng có ai định thử hay tưởng tượng ra điều đó. Tại sao họ vẽ những bức tranh này? Chúng là điển hình cho nghệ thuật mục đích.
Những đền đài này ở Khajuraho không phải là các đền đài thông thường; chúng là một kiểu trị liệu, chúng tồn tại như một cách trị liệu. Bất kì khi nào một ai đó đang bị suy đồi dục đều được gửi tới Khajuraho. Người đó phải ngắm nhìn và thiền về tất cả những thứ dị thường, quái chiêu này. Người đó có cái gì đó suy đồi trong tâm trí; cái suy đồi đó ở bên trong vô thức. Phân tâm học làm được gì? Nó cố đem mọi điều từ vô thức ra ý thức, có thế thôi. Và phân tâm học nói rằng một khi cái gì đó từ vô thức tới ý thức thì nó được thoát ra, bạn tự do với nó.
Bây giờ đây là phân tâm học vĩ đại, các đền ở Khajuraho này. Người suy đồi bất thường được đưa tới. Người đó đã kìm nén suy đồi của mình - đôi khi chúng bùng phát, nhưng người đó cứ kìm nén. Người đó biết rằng cái gì đó đang có đấy tựa như một vết thương, nhưng người đó chẳng bao giờ có thể thấy được nó mặt đối mặt. Người đó được đưa đến Khajuraho. Người đó đi chậm rãi, suy tư về từng bức tượng, về từng tư thế kì quái. Rồi một hôm, bỗng nhiên một tư thế khớp với suy đồi bên trong của người đó. Bỗng nhiên từ vô thức sự suy đồi tràn ra bề mặt tới ý thức, và nó được thoát ra mà chẳng cần Freud hay Jung hay Adler có đó - chỉ có ngôi đền gây ra tác dụng. Người đó được bỏ lại trong đền. Trong một vài tuần người đó có thể ở đó. Với mỗi thiền nhân, người thực sự muốn đi vào thiền sâu trong những ngày ấy, điều nên làm là tới thăm một ngôi đền kiểu như Khajuraho.
Trên các bức tường của ngôi đền tất cả đều là những bức tượng ấy - rất bất thường, rất quái dị, rất suy đồi. Bên trong ngôi đền không có các tranh vẽ dâm dục, không có tượng dâm dục chút nào, không dâm dục chút nào. Bên trong thì hoặc là tượng Phật, tượng Shiva hay tượng Krishna.
Ý nghĩa của nó là gì? Tại sao dục chỉ có trên tường bên ngoài mà bên trong thì không có dục? Đấy là một kĩ thuật. Đầu tiên bạn phải đi tới phần ngoại vi để cho bạn có thể trở nên thoát khỏi dục. Khi một người cảm thấy rằng bây giờ các tượng dâm dục này không hấp dẫn người đó chút nào nữa - bây giờ người đó cứ ngồi trước chúng và không có gì xảy ra bên trong nữa, người đó giữ được bình tĩnh và lặng yên, không gợi dục, không kích động; trong vài tuần người đó chờ đợi, và không cảm thấy gợi dục - thế thì người đó có khả năng đi vào bên trong ngôi đền.
Đấy là biểu tượng. Bây giờ dục của người đó có thể vượt ra ngoài. Ngôi đền này là ngôi đền Mật tông, một trong những thực nghiệm vĩ đại nhất đã được thực hiện. Chúng không khiêu dâm, chúng không gợi dục, chúng là tâm linh - một thực nghiệm vĩ đại trong tâm linh, một thực nghiệm vĩ đại trong việc biến đổi năng lượng con người hướng lên các mức cao hơn.
Nhưng đầu tiên năng lượng phải được giải phóng khỏi mức thấp hơn. Và để giải phóng nó chỉ có một cách: làm cho nó hoàn toàn thành ý thức, đưa mọi tưởng tượng của tâm trí vô thức thành ý thức. Khi vô thức hoàn toàn không còn bị nặng gánh nữa, bạn được tự do. Thế thì bạn không còn các khối chắn nữa, thế thì bạn có thể chuyển vào trong. Thế thì bạn có thể đi vào bên trong ngôi đền, thế thì bạn có thể thiền về Phật, về Shiva, về Krishna.
Đó không phải là điều tưởng tượng, Samagra này, đó là nghệ thuật mục đích mà bạn vô tình gặp đấy.
Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, thầy có cái gì mà tôi không có? (Và tôi không nói về đạo tràng, ô tô, bàn viết và mọi loại chất liệu đó.)
Bạn phải đang nói về 'mọi loại chất liệu đó', bằng không tại sao bạn ngụ ý nó là tất cả? Chính việc nói tới nó chỉ ra tâm trí. Bạn phải đã lo sợ, ý tưởng này phải thoáng qua tâm trí bạn... và tôi chẳng có đạo tràng, chẳng có ô tô, chẳng có bàn viết; trong thực tế tôi chẳng có gì cả. Việc có không phải là vấn đề duy nhất. Hiện hữu... tôi chỉ ở đây; hiện hữu là của cải của tôi, không phải là việc có. Nếu đạo tràng là ở đây, nó là để dành cho bạn chứ không phải cho tôi. Nếu có bàn viết thì cũng là để dành cho bạn, không phải cho tôi. Tất cả những cái tồn tại ở đây là để dành cho bạn. Nó chẳng liên quan gì tới tôi cả.
Tôi một mình là đủ.
Nhưng ở đâu đó, sâu trong tâm trí bạn, bạn phải quá gắn bó với mọi thứ. Khi bạn hình thành nên một câu hỏi, bạn hãy nhớ, nó biểu lộ rất nhiều điều về bạn. Câu hỏi không chỉ là câu hỏi, nó cũng chính là biểu tượng nữa.
Một số người trong phòng hút thuốc lá đang tranh luận xem ai là nhà phát minh vĩ đại nhất. Một người bằng lòng với Stevenson, người đã phát minh ra đường sắt, người khác thì nói tới Edison, người nữa thì nói tới Marconi, còn một người nữa thì cho là anh em nhà Wright. Cuối cùng một người trong số họ quay sang một người đàn ông nhỏ bé, người vẫn đang lắng nghe mà chẳng nói gì cả. "Ông nghĩ thế nào, ông bạn?"
"Này," câu trả lời đưa ra với một nụ cười hiểu biết, "người đã phát minh ra 'lợi tức' là kẻ khôn hơn cả.”
Và người Do Thái đang ẩn trong mọi người; người Do thái cứ chỉ nghĩ đến tiền, đến lợi tức, đến mọi thứ... đến việc có.
Điều thứ nhất: Thay đổi tập trung của bạn từ việc có sang sang việc hiện hữu đi. Bạn có thể có cả thế giới mà điều đó cũng chẳng ích gì; bạn vẫn còn là kẻ ăn mày. Và tôi không nói tới việc từ bỏ thế giới, tôi nhắc bạn. Tôi không nói từ bỏ thế giới - bạn đừng nhảy sang kết luận đối lập. Tôi đang nói bạn có thể có cả thế giới mà bạn sẽ chẳng có gì cả, đấy là tất cả những gì tôi đang nói. Tôi không nói từ bỏ nó... bởi vì những người từ bỏ, tâm trí họ vẫn còn tập trung vào việc có. Bạn đếm tiền, họ cũng đếm tiền. Bạn nói, "Tôi đã kiếm được nhiều nghìn đô la này"; họ nói "Tôi đã từ bỏ nhiều nghìn đô la kia" - nhưng việc đếm vẫn tiếp tục. Bạn là kế toán viên họ cũng là kế toán viên. Và việc ghi sổ sách là thế giới.
Biết được bạn là ai chính là trở thành hoàng đế. Hiện hữu là trở thành hoàng đế. Việc có chỉ là nghèo khó.
Có hai loại người nghèo trên thế giới: những người có và những người không có. Nhưng cả hai đều nghèo, bởi vì những người có thì họ không có gì, còn những người không có, tất nhiên họ cũng chẳng kiếm được gì. Nhưng cả hai đều nghèo. Những người có, họ phân vân: "Phải làm gì với nó đây?" Họ bị mắc kẹt với nó; họ đã phí cả đời để có nó, bây giờ nó có đấy và họ chẳng biết phải làm gì với nó cả. Nó không thoả mãn cho bất kì cái gì, nó không đem lại bất kì hoàn thành nào, nó không đem lại bất kì nở hoa nào. Họ vẫn chưa đi đến mở hội cuộc sống. Thượng đế còn chưa xảy ra qua điều đó. Điều đó chưa bao giờ xảy ra qua việc có cả.
Bạn hỏi: "Thầy có gì mà tôi không có...?"
Nếu bạn cứ khăng khăng nói dưới dạng có thì bạn còn có nhiều hơn là tôi có. Bạn có vô hạn thứ nhiều hơn: tham lam, giận dữ, thèm khát, tham vọng, bản ngã - và cả nghìn lẻ một thứ nữa.
Tôi đã có gì? - chỉ cái không. Chính xác, chỉ cái không. Nếu bạn nghĩ theo quan điểm về việc có, thì tôi là người nghèo nhất, bởi vì tôi chỉ có cái không. Nhưng nếu bạn nghĩ theo quan điểm của hiện hữu, thì tôi là người giầu có nhất - bởi vì một khi bạn vứt bỏ được bản ngã, bạn không mất cái gì, bạn chỉ mất đi tật bệnh. Khi bạn vứt bỏ tham lam, bạn không mất cái gì nữa, bạn chỉ mất tật bệnh. Khi bạn vứt bỏ giận dữ, bạn không mất gì, bạn được. Mỗi lần bạn vứt bỏ những thứ như thế mà bạn có, bạn trở nên giầu hơn.
Khi tham lam biến mất việc chia sẻ đi vào sự tồn tại. Khi giận dữ biến mất từ bi đi vào sự tồn tại. Khi ghen ghét, ghen tị, sở hữu biến mất tình yêu đi vào hiện hữu.
Tôi chỉ có bản thân tôi. Nhưng cái ta đó diễn tả chính nó theo nhiều, nhiều chiều hướng - trong chia sẻ, trong tình yêu, trong từ bi. Cho nên tôi có thể nói bạn còn có nhiều, nhiều hơn, vậy mà tôi sẽ nói bạn chưa hiện hữu. Tôi hiện hữu, còn bạn không hiện hữu.
Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu, thầy ngụ ý gì khi thầy nói rằng con người là cái máy?
Con người kia là cái máy đấy! Có ba cảnh - thứ nhất là:
"Xin chào, ông bạn già Bernie!" Charlie lên tiếng chào, cái gì đó bắn ra. "Chúng ta hãy vào quán và ăn mừng thói quen hút xì gà."
"Bác đang nói gì vậy?" Bernie hỏi.
"Nghe đây," Charlie tiếp tục, "Vợ tôi muốn tôi thôi hút thuốc. Và phương pháp của vợ tôi là, khi tôi cảm thấy thích xì gà thì thế vào đó là ăn một thanh kẹo O' Henry."
“Bác làm như thế thật à?" Bernie hỏi.
"Có đấy! Và đó là lí do tại sao tôi ăn mừng. Tôi trở lại hút xì gà - ý tưởng thanh kẹo đó không có tác dụng; tin tôi đi, tôi đã thử nó. Mỗi lần tôi muốn hút thuốc tôi lại mua một thanh kẹo O' Henry. Nhưng bác có biết điều gì không? Tôi không thể châm thuốc được."
Khi tôi nói người kia là cái máy, tôi muốn nói người đó vận hành qua thói quen, không qua nhận biết. Khi tôi nói người đó là cái máy, tôi muốn nói người đó vận hành qua quá khứ không phải qua tính tự phát của mình.
Cảnh thứ hai...
Một công nhân làm đêm đã để râu tóc dài cho đến khi nào đội bóng rổ anh ta ưa thích đoạt được cờ, dài đến độ chị vợ xinh xắn và trẻ trung của anh ta thấy ghê tởm.
Một hôm đội bóng của anh ta đoạt được cờ thế là anh ta nghỉ việc, cạo đầu tóc nhẵn nhụi, về sớm và lẻn vào giường. Trong bóng tối anh ta nắm lấy tay vợ và đặt nhẹ nhàng lên khuôn mặt nhẵn nhụi của mình.
Cô vợ quay nhẹ đi trong khi vẫn lần ngón tay qua chiếc cằm nhẵn thín và nói, "Làm nhanh lên, trẻ! Lão Whikers sắp về đến nơi rồi."
Khi tôi nói rằng con người là máy, tôi muốn nói con người không thấy cái gì là hoàn cảnh, con người không nhìn vào khoảnh khắc hiện tại, con người không đáp ứng với thực tại. Con người cứ sống trong các ý tưởng cũ, con người sống qua thói quen.
Cảnh thứ ba...
Một hôm Mulla Nasruddin đọc một bài thở nhỏ trong một tạp chí. Anh ta thích bài thơ này lắm. Bài thơ đó là:
Thưa ông ấy, sao ông ấy không mua một hay hai bó hoa,
Nhân phiên chợ hoa mùa xuân?
Và đem chúng về nhà trong một ngày vui vẻ, Nhưng nhớ giữ gìn cẩn thận.
Rồi trao chúng tận tay vợ ông ấy và nói, "Hôm nay anh nghĩ về em trong thành phố."
Mulla Nasruddin làm hệt như thế. Anh ta mua vài bông hoa, nhưng thay vì đi vào nhà như thường lệ thì anh ta lại gõ cửa. Và khi vợ anh ta mở cửa ra, anh ta trao ngay hoa cho vợ. Anh ta ngạc nhiên khi chị vợ buột khóc. "Sao, cái gì thế vậy?" anh ta hỏi.
"Ôi trời," chị ta đáp, "em gặp phải một ngày khủng khiếp. Em làm vỡ mất ấm trà, con trẻ thì kêu khóc, cơm chưa nấu mà anh thì say khướt về nhà!"
Đấy chính là điều tôi ngụ ý khi tôi nói con người là cái máy. Và bạn không trở nên nhận biết về nó, bởi vì làm sao cái máy có thể trở thành nhận biết được? Bạn cần ai đó liên tục gõ búa vào đầu bạn, với hi vọng rằng đôi khi búa sẽ thực sự gõ trúng bạn, làm chấn động bạn ra khỏi thói quen và trong thoáng chốc bạn sẽ tỉnh thức.
Đó là toàn bộ mục đích của thầy: cứ gõ vào bạn từ phía này, từ phía kia, từ mọi phía, và cứ thay đổi kĩ thuật, tình huống, phương cách để cho một ngày nào đó bạn bị lôi cuốn ra khỏi vô nhận biết.
Cho dù chỉ cần một thoáng chốc bạn trở nên nhận biết bạn sẽ hiểu ngay rằng toàn bộ quá khứ của bạn đều đã là quá khứ máy móc. Chỉ thế bạn sẽ biết - nhưng không phải bởi lời nói của tôi về nó - rằng con người là cái máy. Chỉ thế thì bạn sẽ biết, khi bạn đã nếm trải một khoảnh khắc nhận biết. Thế thì toàn bộ cuộc đời bạn sẽ đơn giản được biết tới, được nhìn nhận, được nhận ra như cái máy. Bởi vì cho dù biết nó là máy móc, bạn vẫn cần cái gì đó để so sánh với nó. Bạn không có gì để so sánh với nó cả, bạn sống giữa các cái máy. Bố bạn là một cái máy, mẹ bạn là một cái máy, vợ bạn là một cái máy, bạn của bạn, ông chủ bạn - bạn sống giữa các cái máy. Bạn cũng là một cái máy. Làm sao trở nên nhận biết được?
Có lần vợ Mulla Nasruddin bảo với tôi rằng cô ấy chưa bao giờ biết rằng chồng mình lại say rượu mãi cho tới đêm hôm ấy anh ta về nhà say khướt cò bợ. Nếu một người liên tục say rượu thì rất khó để biết rằng anh ta đang say; bạn trở nên quen thấy anh ta theo cách đó.
Bạn là cái máy. Điều đó gây tổn thương - đó là mục đích của việc gọi bạn là máy. Để cho nó bị tổn thương đi. Nếu nó không tổn thương bạn đã vào tình thế không thể chữa được rồi. Nếu nó tổn thương, còn có khả năng. Nếu nó tổn thương, điều đó có nghĩa là bằng cách nào đó, sâu trong vô thức, bạn cũng cảm thấy rằng, đúng, quả có như vậy.
Bạn có sống trong khoảnh khắc hiện tại không? Bạn có nhận ra mọi thứ như chúng ngay bây giờ không? Hay bạn chỉ cứ nhìn chúng qua con mắt cũ, tâm trí cũ... kí ức? Bạn có sáo rỗng không đấy? Bạn ngay lập tức đặt mọi thứ vào trong những cái hộp nào đó, những cái hộp làm sẵn. Chẳng hạn, nếu bạn là người Hindu và bạn gặp một người và bạn rất quan tâm đến người đó... người đó trông đẹp đẽ và rất tốt, bạn thích rung động của người đó. Rồi bạn hỏi mọi điều về người đó và người đó trả lời, "Tôi là người Mô ha mét giáo." Kết thúc. Tất cả những rung động đẹp không còn nữa, bạn đã co lại. Bạn có một cái hộp, một cái hộp cố định rằng người Mô ha mét giáo không tốt. Bạn là người Hindu; người Mô ha mét giáo là xấu. Bạn lập tức phân loại người đó, bạn ấn người đó vào một lỗ tổ chim. Bây giờ bạn không còn quan tâm tới thực tại của người ấy. Thực tại vừa nói điều gì đó khác, nhưng nó đi ngược với phân loại và lí thuyết của bạn.
Tôi đã từng nghe...
Một phụ nữ trẻ đi tới một thành phố lớn gần đó để làm việc. Họ đều là những người rất nghèo còn người mẹ thì già, khi người phụ nữ trẻ còn bé cô ấy đã phải đi làm để kiếm thêm chút tiền. Sau vài tháng cô ấy quay trở về với rất nhiều tiền. Người mẹ rất hạnh phúc; bà ta hỏi, "Bây giờ nói cho mẹ biết con đã làm gì ở đó?"
Người con gái rất thật thà và trả lời, "Con đã trở thành gái mãi dâm."
"Gì thế!" người mẹ kêu thất thanh - và ngất xỉu. Khi bà tỉnh lại sau nửa giờ bà lại hỏi, "Kể cho mẹ con đã trở thành người gì?"
Còn người con gái thì đáp, "Con đã bảo mẹ, là con làm gái mãi dâm."
Người mẹ nói, "Lạy trời! Mẹ cứ nghĩ con nói con đã trở thành người theo đạo tin lành!"*
Tất nhiên họ đều là người Ki tô giáo.
Phân loại liên tục tiếp diễn trong tâm trí. Quan sát: khi bạn làm điều gì đó, bạn có phản ứng với sự kiện ở đây bây giờ không, hay bạn tuân theo các lí thuyết quá khứ nào đó? Khi bạn làm điều gì đó, bạn có làm điều ấy với chú tâm, nhận biết hay bạn chỉ làm như người máy?
Hôm trước tôi đã nói về ba nhận biết: nhận biết một, nhận biết hai, nhận biết ba. Đây là nhận biết đầu tiên: quan sát chính bản thân bạn, quan sát hành động của bạn, quan sát phản ứng của bạn, quan sát đáp ứng của bạn. Bạn đang đối xử như thế nào - như một con người hay như một cái máy? Và trong một trăm trường hợp, có tới chín mươi chín lần bạn sẽ thấy rằng bạn đang đối xử giống như cái máy. Nhưng nếu bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn chút xíu thế thì bạn đang trở thành cái gì đó hơn cái máy; điểm thêm đó đang nảy sinh trong bạn. Nhận biết đó sẽ giúp cho bạn trở thành con người. Chỉ khi bạn nhận biết bạn mới là con người. Hoàn toàn nhận biết, bạn là con người đầy đủ. Hoàn toàn vô nhận biết, bạn là cái máy.
* Hai chữ tiếng Anh phát âm gần giống nhau "prostitute" - mãi dâm và "Protestant" người tin lành nên gây ra sự hiểu lầm.
Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu, từ khi tôi ở đây, mọi thứ tôi ước mong đều xảy ra cho tôi. Bây giờ tôi có mọi thứ có thể muốn mà tôi cảm thấy giống như tim tôi tan vỡ. Điều gì xảy ra vậy?
Câu hỏi này là từ Anand Pratima.
Điều gì đó cực kì đẹp đẽ đang xảy ra. Đừng cố phân tích nó và đừng cố nghĩ về nó. Đừng cố diễn giải nó, bằng không tâm trí có thể phá huỷ toàn bộ sự việc. Chính tâm trí đang cố can thiệp vào trái tim. Câu hỏi này đến từ tâm trí. Trái tim tràn đầy vui vẻ, đó là lí do tại sao nó đang vỡ ra; nó không thể chứa đựng được điều đó; vui vẻ quá lớn. Để cho nó tan vỡ ra. Đó chính là điều để tôi có ở đây, đó là lí do tại sao bạn đến với tôi.
Bạn đã hiểu lầm. Tim vỡ ra vì vui mừng, tim vỡ ra vì sung sướng, cực kì sung sướng. Trong một khoảnh khắc nào đó vui mừng trở thành không thể chịu đựng nổi. Khi vui mừng thành không thể chịu đựng nổi, bạn mới thực sự là vui mừng. Thế thì vui mừng lên đến cực điểm, thế thì vui mừng đạt tới điểm một trăm độ. Nếu bạn có thể chịu được vui mừng vô bờ này, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bắt đầu bay hơi qua vui mừng đó, bạn sẽ bắt đầu tan biến vào trong điều thiêng liêng. Đừng sợ hãi, chẳng có gì sai đang xảy ra cho bạn; bạn đang được phúc lành đó.
Nhưng nó xảy ra, ý tưởng của ta... Nếu bạn thấy ai đó đang kêu khóc, bạn nghĩ rằng người đó đang buồn, người đó phải đang khổ. Bạn bắt đầu an ủi. Bạn có nghe nói tới cách nói 'nước mắt vui mừng' không? Có cả nước mắt vì quá đỗi vui mừng nữa. Cho nên đừng vội an ủi - có thể người ấy đang vui mừng. Nhưng chúng ta chỉ biết về những người khóc khi họ bất hạnh; chúng ta không biết về những người khóc khi họ hạnh phúc bởi vì mọi người thường không hạnh phúc chút nào. Cho nên nước mắt vui mừng chỉ có trong thơ ca, chỉ tìm thấy được trong thơ ca - không có trong đôi mắt.
Nhưng nước mắt chẳng có liên quan gì với nỗi buồn cả. Đấy là trạng thái xấu của nhân loại, trạng thái buồn thảm về công việc, người ta kêu khóc chỉ khi họ buồn, khổ. Nước mắt chẳng liên quan tới khổ như thế, nước mắt chỉ trào ra khi cái gì đó tràn đầy. Đấy có thể là nỗi buồn, đấy có thể là vui vẻ, đấy có thể là tình yêu, đấy có thể là giận dữ. Bạn có thể quan sát phụ nữ: khi họ trở nên quá giận, họ bắt đầu khóc. Đấy là giận dữ, không phải là buồn rầu. Quan sát một đứa nhỏ: nếu nó cười quá nhiều, nó bắt đầu khóc. Quá nhiều rồi, không thể chịu đựng được nữa; nó bắt đầu tràn ngập trong nước mắt. Nước mắt chỉ là một chỉ báo rằng cốc nước đã đầy - chúng bắt đầu trào.
Bạn nói: "Từ khi tôi ở đây mọi thứ tôi mong ước đều xảy ra cho tôi..."
Đó là lí do tại sao vui mừng đang trở thành không chịu đựng nổi; bạn đang về gần hơn tới nhà. "Bây giờ tôi đã có mọi thứ có thể muốn và tôi cảm thấy giống như tim tôi tan vỡ. Điều gì xảy ra vậy?"
Để cho nó tan vỡ, để cho nó tan thành từng mảnh. Từ vui vẻ, để cho nó bùng nổ.
Để cho nó biến mất vào cái vô hạn.
Câu hỏi thứ sáu:
Osho kính yêu, tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý kiến người khác?
Bởi vì bạn không có đó, bởi vì bạn chưa có đó. Bạn chẳng là gì khác hơn là một hiện tượng chồng chất ý kiến của người khác. Bạn là ai? Ai đó nói bạn đẹp, thế là bạn đẹp, rồi ai đó nói bạn xấu, thế là bạn xấu, rồi ai đó nói bạn tuyệt vời thế là bạn tuyệt vời. Còn ai đó nói, "Tôi chưa bao giờ thấy một con người kinh tởm đến thế," thế là bạn lại là người kinh tởm. Mà mọi người cứ nói, còn bạn thì cứ cóp nhặt đủ mọi thứ ấy, và đó là hình ảnh của bạn. Đó là lí do tại sao hình ảnh của bạn rất mâu thuẫn, tham vọng: người này nói bạn đẹp, người kia nói bạn xấu. Bạn muốn quên ý tưởng của người nói bạn xấu, nhưng bạn không thể quên được điều đó, nó vẫn còn đó. Nếu bạn giữ ý kiến rằng bạn đẹp, bạn sẽ phải giữ cả ý kiến rằng bạn xấu nữa.
Hình ảnh của bạn rất tham vọng, bạn không biết đích xác mình là ai. Bạn là món hẩu lốn, điều chúng ta ở Ấn Độ gọi là kedgeree, một món hỗn hợp bao nhiêu thứ. Bạn chưa có linh hồn. Bạn không có tính cá nhân nào, bạn không có trung tâm tích hợp, bạn chỉ là kẻ nghiện ngập ý kiến người khác. Đó là lí do tại sao bạn sợ, bởi vì nếu ý kiến người khác thay đổi thì bạn sẽ thay đổi; bạn bị giữ chặt trong tay họ.
Và đây cũng chính là thủ đoạn xã hội đã dùng. Xã hội có một kĩ thuật: nó làm cho bạn rất tham vọng về tôn kính của xã hội. Qua đó, nó thao túng bạn. Nếu bạn tuân theo những qui tắc của xã hội, nó kính trọng bạn, nếu bạn không tuân theo các qui tắc của xã hội, nó sỉ nhục bạn khủng khiếp, nó làm tổn thương bạn rất nặng nề. Và tuân theo các qui tắc của xã hội là trở thành nô lệ. Vâng, nó trả cho bạn tôn kính lớn lao để là một nô lệ, nhưng nếu bạn muốn là người tự do, xã hội trở nên giận dữ, nó không muốn có bất kì cái gì liên quan tới bạn.
Là người thực sự tự do và tồn tại trong xã hội là điều rất khó khăn. Và tôi nói điều đó cho bạn là từ kinh nghiệm riêng của tôi. Gần như không thể nào tồn tại được bởi vì xã hội không muốn có người tự do. Người tự do là nguy hiểm cho sự tồn tại của xã hội. Xã hội thích người sống dở chết dở, máy móc, người máy - bao giờ cũng sẵn sàng đứng xếp hàng ở bất kì đâu. Chỉ cần hô to với họ, "Chú ý!" và thế là họ đứng ngay vào hàng một cách máy móc. Họ không hỏi tại sao, họ là kẻ bắt chước.
Bây giờ xã hội chú trọng tới họ lắm: nó cho họ kính trọng, nó cho họ giải thưởng, phần thưởng, vinh dự - nó phải làm như thế, đây là thủ đoạn. Nó chưa bao giờ trao phần thưởng nào cho những người tự do, nó chưa bao giờ tôn kính họ. Làm sao nó có thể tôn kính họ được? - họ là kẻ thù. Người tự do là kẻ thù trong xã hội không tự do, người đạo đức là kẻ thù trong xã hội vô đạo đức, người tôn giáo là kẻ thù trong xã hội phi tôn giáo. Trong thế giới của chủ nghĩa duy vật người tâm linh bao giờ cũng khó khăn; người đó không hợp được vào đâu hết.
Để hợp được với người khác, xã hội cho bạn thật nhiều thứ bạn muốn; nó cho bạn hình ảnh tốt, nó chống đỡ cho bạn. Nhưng nếu bạn không chịu nghe thì nó bắt đầu thay đổi ý kiến của nó. Nó có thể đánh đổ bạn trong vài giây, bởi vì hình ảnh của bạn là trong tay xã hội. Cho nên đây là điều đầu tiên cần được hiểu.
Bạn hỏi: "Tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý kiến người khác?" Bởi vì bạn còn chưa có đó, bạn chẳng là gì ngoài ý kiến của người khác, do đó có nỗi sợ: họ có thể rút lại ý kiến của họ. Tu sĩ đã nói rằng bạn là người rất tốt. Bây giờ, nếu bạn hành xử theo ông ta, bạn sẽ vẫn còn là người tốt. Nếu bạn không hành xử theo ông ta - và bản thân ông ta có thể thần kinh, nhưng bạn phải hành xử theo ông ta - nếu bạn không hành xử, nếu bạn làm điều gì đó theo cách riêng của mình, tu sĩ sẽ nhìn vào bạn và nói, "Bây giờ anh đang chống lại đạo đức, anh đang chống lại tôn giáo, anh đang chống lại truyền thống. Anh đang rơi vào tội lỗi!" Ông ta sẽ thay đổi ý kiến về bạn - còn bạn thì đã là 'tốt' vì theo ý kiến ông ấy.
Là chính bản thân mình đi. Không ai có thể làm bạn thành tốt mà cũng chẳng ai làm bạn thành xấu được. Trừ chính bạn, không ai có thể làm bạn thành tốt và không ai có thể làm bạn thành xấu được. Những hình ảnh giả này chỉ là sống trong mơ.
Bác sĩ bảo với một người, "Anh đang tạo ra lịch sử ngành y đấy, anh bạn. Anh là người đàn ông duy nhất được ghi nhận đã trở thành mang thai!"
Người này trả lời, "Khủng khiếp quá! Hàng xóm tôi sẽ nói thế nào đây? Tôi vẫn còn chưa lấy vợ."
Bây giờ người đó chẳng quan tâm gì đến lịch sử và kỉ lục ngành y cả, người đó chỉ lo lắng về việc hàng xóm sẽ nói thế nào vì người đó còn chưa lấy vợ.
Chúng ta liên tục sợ hãi. Nỗi sợ này sẽ tiếp tục nếu bạn không vứt bỏ việc thu thập các ý kiến. Vứt chúng đi - mọi ý kiến. Ai đó tin rằng bạn là thánh nhân? Vứt điều đó đi, bởi vì người đó nguy hiểm; người đó sẽ thao túng bạn qua ý tưởng của người đó. Một khi bạn nghe lời người đó và bạn tin người đó, người đó sẽ trở thành người chủ còn bạn trở thành nô lệ.
Đôi khi mọi người đến tôi và nói, "Thầy là thánh nhân vĩ đại." Tôi nói, "Rất tiếc, tôi xin lỗi. Xin đừng bao giờ thốt ra những lời như vậy với tôi, bởi vì tôi không định bị bất kì ai thao túng. Tôi chỉ là bản thân mình thôi - thánh nhân hay tội nhân, điều đó chẳng thành vấn đề gì!" Người đó đang nghĩ rằng người đó đang cố gắng ca tụng tôi. Có thể người đó thậm chí không nhận biết về điều người đó đang làm. Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người, bạn cũng đều trở nên mạnh mẽ. Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người và người đó chấp nhận ca ngợi của bạn, người đó đã rớt xuống thành nạn nhân. Bây giờ bạn sẽ kiểm soát được người đó. Bây giờ bất kì khi nào người đó muốn làm gì, bất kì một việc hồn nhiên nào...
Nghĩ mà xem: bạn gọi một người nào đó là thánh nhân, là mahatma, là hiền giả vĩ đại. Rồi một hôm nào đó người đó muốn hút thuốc - phải làm sao đây? Người đó không thể hút thuốc được, bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho cái danh tiếng thánh nhân của người đó? Bây giờ dường như người đó phải chú trọng quá nhiều đến cái danh tiếng thánh nhân của mình ngay cả trong hút thuốc nữa; người đó không thể hút thuốc được bởi vì quá nhiều người gọi người đó là thánh nhân. Hay người đó sẽ trở thành một kẻ đạo đức giả. Người đó có thể bắt đầu hút thuốc sau cánh cửa và người đó vẫn nói rằng mình không hút thuốc, rồi người đó lên án việc hút thuốc giống như bất kì cái gì khác khi người đó ra trước công chúng. Thế thì người đó sẽ có hai mặt, mặt ra trước công chúng và mặt riêng tư. Thế thì người đó sẽ bị chia chẻ.
Bạn đừng bao giờ chấp nhận ý kiến của người khác, dù tốt hay xấu. Bảo họ, "Rất tiếc. Xin bạn hãy giữ ý kiến đó cho chính bạn. Tôi chỉ là chính bản thân tôi." Nếu bạn có thể còn duy trì tỉnh táo đó, chẳng ai có thể thao túng được bạn, bạn vẫn còn tự do. Và tự do là vui vẻ. Nhớ lấy, tự do là khó khăn, bởi vì xã hội bao gồm các nô lệ. Tự do là khó khăn, nhưng tự do là vui vẻ duy nhất có đó. Tự do là điệu vũ duy nhất có đó, và tự do là cánh cửa duy nhất hướng tới Thượng đế. Nô lệ chẳng bao giờ đạt tới Thượng đế, người đó không thể đạt tới được.
Câu hỏi thứ bảy:
Osho kính yêu, người ta đã từng nói rằng người Anh làm người phục vụ giỏi nhất thế giới. Khi thầy đặt tên cho tôi, thầy đã dịch nó là 'trong phục vụ tình yêu.' Bây giờ tôi biết rằng cũng có thể dịch là 'người phục vụ tình yêu'. Tôi phân vân về điều này. Đôi khi dường như là tôi gần như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình mà chẳng có ý định phục vụ gì cả. Ngược lại thì dường như chỉ giống phục vụ nhưng tôi phải chịu đựng bệnh tật văn hoá tiếng Anh về lễ phép, thân phận nô lệ và bất lực. Xin thầy bình luận về điều này.
Câu hỏi này là từ Ma Prem Dasi. Prem Dasi thực tế nghĩa là 'người phục vụ tình yêu'. Nhưng trong khi trao tính sannyas cho cô ấy, tôi đã chủ ý dịch nó là 'trong phục vụ tình yêu'. Cách dịch chính xác là 'người phục vụ tình yêu'. Tôi đã dịch nó là 'trong phục vụ tình yêu' vì có lí do đấy.
Tôi muốn bạn trở nên càng phục vụ nhiều hơn, nhưng tôi không muốn bạn trở thành người phục vụ. Người phục vụ không phục vụ, chỉ có thầy mới phục vụ; người phục vụ chỉ làm bổn phận của họ. Bổn phận là từ không hay, có hai âm. Người ta phải làm điều đó; không có cái đẹp trong đó, không có vui vẻ trong đó. Cho nên làm việc phục vụ nhưng đừng bao giờ là người phục vụ; đấy là một điều.
Điều thứ hai: Khi bạn trở thành người phục vụ, bạn học các thói quen. Phục vụ là quá trình tiếp diễn; trở thành người phục vụ là đạt tới tính cách, tính cách chết cứng. Mọi người biết bạn là người phục vụ quần chúng, mọi người biết rằng người đó là người phục vụ.
Chẳng hạn, bạn đang đi qua đường, và bạn thấy một ngôi nhà bốc cháy rồi bạn chạy xô tới, bạn cứu trẻ con sắp chết. Nhưng bạn không phải làm việc đó; bạn không tìm kiếm việc phục vụ công chúng nào đó. Bạn chỉ đi dạo sáng sớm và ngôi nhà cháy. Bạn chẳng nghĩ gì về nó cả; chỉ có tình huống và đáp ứng... Bạn đang trong phục vụ. Nhưng người phục vụ thì nguy hiểm, bởi vì nếu người đó không thể tìm được ai đó để phục vụ thì người đó sẽ buộc ai đó phải được phục vụ.
Tôi đã từng nghe về một nhà truyền giáo Ki tô giáo, người dạy học trò mình, những học trò ngày chủ nhật, những đứa nhỏ con trai và con gái... ông ta dạy chúng làm việc thiện, điều thiện, ít nhất thì cũng một tuần một lần. Chủ nhật sau ông hỏi xem chúng đã làm được việc tốt nào chưa, chúng đã phục vụ nhân dân chưa, chúng đã giúp đỡ được ai chưa? Ba đứa trai đứng dậy và thầy rất hoan hỉ. Trong ba mươi đứa ít nhất cũng có ba đứa... nhưng thế cũng là phần trăm khá lớn rồi, bởi vì ai lắng nghe?
Thế là ông hỏi đứa thứ nhất, "Con đã làm gì? Kể cho cả lớp nghe đi."
Còn đứa nhỏ đáp, "Thưa thầy, con đã giúp một bà già qua đường ạ."
Nhà truyền giáo nói, "Tốt lắm. Bao giờ cũng phải chăm sóc cho bà già."
Rồi ông hỏi đứa thứ hai, và đứa này trả lời, "Con cũng giúp một bà già qua đường ạ."
Linh mục hơi phân vân... nhưng ông chẳng thấy có gì đáng phân vân vì có biết bao bà già; có thể ông cũng gặp một bà già nữa là.
Cho nên ông lại hỏi đứa thứ ba, và đứa thứ ba nói, "Con cũng giúp một bà già qua phố ạ."
Thế là linh mục nói, "Nhưng thế thì dường như nhiều quá - cả ba con đều giúp ba bà già sao?"
Chúng trả lời, "Dạ không ạ, không phải ba bà già mà chỉ có một bà già thôi ạ. Chỉ có một bà ở đấy, tất cả chúng con đều giúp bà ấy.
Rồi thầy nói, "Nhưng... phải cần tới cả ba đứa sao? Các con nói rằng cần cả ba trò để giúp bà già đó sao?"
"Ngay cả có đến sáu đứa chúng con vẫn cảm thấy khó khăn bởi vì bà ấy không muốn đi qua đường. Rất khó thưa thầy nhưng chúng con đã làm được điều đó, bởi vì phải làm cái gì đó! Bà ấy quả là rất giận dữ!"
Đừng bao giờ là người phục vụ, bằng không bạn sẽ phải đi tìm kiếm. Và nếu bạn không thể tìm thấy một nơi nào đó để phục vụ thì bạn sẽ rất giận dữ. Những người này có khắp trên thế giới, những người phục vụ quần chúng; họ là những người gây tác hại nhất. Họ tạo ra rất nhiều tác hại... bởi vì khi mọi người không muốn được phục vụ thì thế nữa họ vẫn cứ áp đặt phục vụ của họ. Họ phải áp đặt, họ có đầu tư ở đó. Họ không thể cho phép một thế giới đẹp đẽ tồn tại bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho họ?
Thử nghĩ mà xem: không còn người hủi nữa, không còn người ốm nữa, thì cũng không cần bệnh viện. Và tất cả đều trở nên chứng ngộ - không cần trường học, không cần trường cao đẳng và không cần tới đại học... Điều gì sẽ xảy ra cho những người phục vụ quần chúng? Họ sẽ bắt đầu tự tử. Chẳng còn ai để phục vụ nữa! Họ cần, họ sẽ xoay sở cách nào đó để tạo ra tình huống mà họ còn có thể còn phục vụ; toàn bộ uy tín của họ phụ thuộc vào điều đó. Đấy là trò bản ngã.
Đó là lí do tại sao, bạn biết rõ... Tôi nhớ đích xác khi tôi đặt tên sannyasin cho Prem Dasi: Tôi đã định dịch là 'người phục vụ tình yêu', thế rồi tôi nghĩ như thế sẽ sai. Từ này có nghĩa như thế, và tôi đổi lại tôi gọi cô ấy là 'trong phục vụ tình yêu'.
Hãy trong phục vụ, nhưng đừng làm cho phục vụ trở thành tính cách của bạn. Tôi yêu những người sống không có tính cách, những người sống hết khoảnh khắc nọ đến khoảnh khắc kia, những người chỉ đáp ứng lại tình huống. Bằng không bạn sẽ trong tù túng.
Và bạn cũng phải, Prem Dasi này. Bạn nói: "Tôi gần như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình mà chẳng có ý định phục vụ gì cả." Hoàn toàn đúng. Đấy chính là cách nó phải như thế. Khi bạn có ý định phục vụ, điều đó không còn đẹp nữa, điều đó không còn là tình yêu nữa. Khi bạn là chính bạn, hoàn toàn là bản thân bạn... từ độc lập đó, từ con người đó nảy sinh ra tình yêu và bạn phục vụ mọi người. Và không có cảm giác rằng bạn là người phục vụ còn họ là chủ. Bạn đơn giản phục vụ bởi vì bạn có nhiều để cho đến độ bạn phải chia sẻ; bạn tuôn chảy trong chia sẻ, trong tình yêu, trong từ bi của bạn
Câu hỏi cuối:
Osho kính yêu, lời nguyện đôi khi có hại không?
Tôi chưa từng nghe nói về điều đó, chỉ trừ trong một trường hợp. Đây là câu chuyện.
Hai cô gái cưới trong cùng một ngày và đưa chồng mới cưới vào cũng một khách sạn tuần trăng mật. Bốn người ngồi trong phòng đợi nghĩ vơ vẩn thấy mọi việc tầm thường làm sao nếu tất cả họ đều lên giường vào giờ sớm thế, nhưng sau một lúc họ quyết định rằng con gái nên đi ra theo hướng 'Quí bà' và rồi vào buồng mình, còn đàn ông sẽ uống chén cuối tại quầy. Sau khoảng mười đến mười lăm phút đàn ông sẽ ngẫu nhiên rời quầy theo cùng cách đó và hội ngộ với cô dâu.
Tuy nhiên, ngay khi họ định đi theo các cô gái thì đèn trong khách sạn vụt tắt - điều này làm họ bối rối trong toà nhà lạ. Dầu vậy, mỗi người đều tin chắc mình có thể tìm thấy phòng và thế là họ lên đường.
Harry mò mẫm lên cầu thang và đi dọc hành lang, đếm cửa một cách cẩn thận theo cách của mình - vì anh ta là người rất cẩn thận - và tìm thấy căn phòng. Để cho chắc chắn, anh ta bật diêm và thấy một chút giấy rắc trên đầu cầu thang. Rồi anh ta im lặng bước vào: anh ta cẩn thận cởi quần áo, mặc bộ đồ ngủ, quì xuống và đọc lời nguyện, trèo lên giường và bắt đầu làm tình.
Vào đúng lúc đó mọi đèn bật sáng và anh ta thấy rằng mình đang trong 'đúng' phòng nhưng sai tầng, và đây là cô dâu của người kia! Anh ta vồ lấy quần áo và vội vã chạy về buồng mình - chỉ thấy rằng người đàn ông kia là một kẻ vô thần!