Chương 5. Kỉ luật của siêu việt


Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo, làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không thể nghi ngờ được. Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm người. Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh. Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của Phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp người chứng ngộ. Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có trái tim được thức tỉnh trong sự tin cậy. Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông minh. Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt. Hỡi các con của Phật! Các ông xa ta dù nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ đạt tới chứng ngộ.
Tâm thức giống như chiếc hồ: có sóng nó trở thành tâm trí, không có sóng nó trở thành linh hồn. Sự khác biệt chỉ ở sự hỗn loạn. Tâm trí là linh hồn bị rối loạn, và linh hồn là tâm trí được im lặng. Tâm trí là chính trạng thái ốm yếu của vấn đề, còn linh hồn là trạng thái mạnh khoẻ của vấn đề. Tâm trí không phải là cái gì đó tách bạch khỏi linh hồn, như sóng không tách bạch khỏi hồ. Hồ có thể hiện hữu mà không có sóng, nhưng sóng không thể hiện hữu mà không có hồ. Linh hồn có thể hiện hữu mà không có tâm trí, nhưng tâm trí không thể hiện hữu nếu không có linh hồn. Khi có gió lớn và hồ bị khuấy đảo, có rối loạn. Và hồ mất đi một phẩm chất trong rối loạn đó, và đó là phẩm chất của phản chiếu. Thế thì nó không thể phản chiếu cái thực. Cái thực trở nên bị bóp méo. Có thể có trăng tròn trên trời, nhưng bây giờ hồ không có khả năng phản chiếu điều đó. Trăng sẽ vẫn được phản chiếu, nhưng theo cách bị bóp méo. Nó sẽ được phản chiếu trong hàng nghìn mảnh. Nó sẽ không là một thực thể thống nhất; nó sẽ không được bình tĩnh, hoà nhập. Nó sẽ không là một. Thực tại là một. Nhưng bây giờ hồ sẽ phản chiếu hàng triệu trăng; toàn thể bề mặt của hồ có thể được rót đầy bàng bạc. Mọi nơi, toàn trăng là trăng - nhưng điều này là không đúng. Chân lí là một: khi tâm trí phản chiếu nó, nó trở thành nhiều; khi tâm thức phản chiếu nó, nó là một.
Tâm thức không mang tính Hindu giáo không Mô ha mét giáo không Ki tô giáo. Nếu bạn là người Hindu bạn vẫn trong tâm trí, bị bóp méo. Nếu bạn là người Mô ha mét giáo bạn là trong tâm trí, bị bóp méo. Một khi tâm trí đã được lắng đọng và sóng không còn đó nữa, bạn đơn giản là tâm thức - không tính từ nào được gắn với nó, không điều kiện nào được gắn với nó. Và thế thì chân lí là một. Thực tế, ngay cả nói rằng chân lí là một cũng không đúng - bởi vì một là có nghĩa chỉ trong ngữ cảnh của nhiều. Chân lí là một tới mức ở phương Đông chúng ta chưa bao giờ gọi nói là 'một'; chúng ta gọi nó là 'bất nhị', không hai.
Tại sao chúng ta đã chọn cách nói vòng khi gọi nó là 'không hai'? Chúng ta muốn nói rằng khó mà nói nó là một, bởi vì một ngụ ý hai, ba, bốn. Chúng ta đơn giản nói 'không hai'. Chúng ta không nói nó là gì, chúng ta đơn giản nói nó không là gì. Không có 'nhiều' trong nó - có vậy thôi. Chúng ta phải diễn đạt nó thông qua việc phủ định, bằng việc nói rằng nó không là hai. Nó là một thế và nó là một mình thế; chỉ nó tồn tại và không cái gì khác. Nhưng điều đó được phản chiếu trong tâm thức khi tâm trí không còn đó nữa. Khi tôi nói 'tâm trí không còn đó nữa', nhớ, tôi không nói về tâm trí như một năng lực. Tâm trí không phải là năng lực. Nó đơn giản là trạng thái bị quấy rối: tâm thức vẩn vơ, run rẩy, rung rinh, không ở nhà.
Gió nào thổi lên tâm thức làm quấy rối nó? Phật nói: Tên của gió đó là đam mê, ham muốn.
Quan sát, và bạn sẽ thấy chân lí của lời của Phật. Nó là một sự kiện, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì lí thuyết nào. Phật không quan tâm tới các hệ thống trừu tượng; ông ấy đơn giản nói cái đang đó. Ông ấy không phát biểu ra triết lí. Bao giờ cũng nhớ điều đó, đừng bao giờ quên điều đó - rằng ông ấy rất mang tính kinh nghiệm, tồn tại. Toàn thể cách tiếp cận của ông ấy chỉ là nói điều gì đó mà bạn có thể kinh nghiệm được ngay lập tức. Và kinh nghiệm của bạn sẽ chứng minh rằng ông ấy đúng. Không có cách khác để chứng minh đúng hay sai. Không có cách nào để biện minh về nó.
Đôi khi ngồi im lặng; cho dù một khoảnh khắc để ham muốn dừng lại, bạn sẽ thấy rằng mọi rối loạn đã biến mất. Ngồi im lặng, không ham muốn cái gì; ngồi im lặng, không đi vào tương lai; ngồi im lặng, mãn nguyện; trong một khoảnh khắc đó bạn sẽ có khả năng hiểu điều Phật ngụ ý. Bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng không có sóng chút nào. Mọi sóng đều đã mất. Sóng dậy lên chỉ khi bạn ham muốn, khi bạn không hài lòng với hiện tại và bạn hi vọng vào tương lai.
Ham muốn là căng thẳng giữa hiện tại và tương lai. Trong căng thẳng đó, sóng dậy lên. Thế thì bạn bị tan tành - và tâm thức rất mong manh. Tâm thức rất mềm mại: chỉ một hơi chút ham muốn, chỉ một cái nhoáng lên của ham muốn, và toàn thể cái hồ bị quấy rối. Đôi khi đi, quan sát, ngồi bên bờ hồ. Nhìn... không có sóng. Ném một hòn đá cuội nhỏ, một hòn đá rất nhỏ, vào cái hồ lớn nhất trong các hồ, và hòn đá nhỏ đó sẽ bắt đầu tạo ra gợn sóng, và những gợn sóng đó sẽ cứ lan toả tới bờ xa nhất. Chỉ hòn đá nhỏ thôi cũng tạo ra nhiều rối loạn thế. Chỉ một ham muốn nhỏ bé và rối loạn tới qua cửa sau. Ham muốn là rối loạn, đam mê là cơn sốt. Trong đam mê bạn không phải là bản thân mình. Trong đam mê bạn ở bên cạnh bản thân mình. Trong đam mê bạn không được định tâm: bạn đánh mất cân bằng. Trong đam mê bạn làm những điều bạn thậm chí không thể tưởng tượng được rằng bạn có thể đã làm. Nhiều kẻ giết người đã thú nhận trước toà, trong suốt nhiều thế kỉ, rằng họ đã không phạm tội ác; điều đó đã xảy ra. Họ đã vào cơn cuồng nộ thế, họ gần như điên. Họ đã không làm điều đó một cách có chủ ý; nó đã xảy ra. Họ không phải là tội nhân, họ là nạn nhân của cơn cuồng nộ của riêng họ. Bạn có thể nghĩ họ đang lừa dối; bạn có thể nghĩ họ bây giờ đang cố gắng chạy trốn sự trừng phạt. Không, nó không như vậy đâu.
Giết người là không thể được nếu bạn có ý thức, nếu bạn im lặng, nếu bạn định tâm. Nó xảy ra chỉ khi bạn không có, khi bạn bị che mờ thế, khi chỉ có sóng và sóng và bề mặt hồ hoàn toàn bị khuấy động - thế thì điều đó xảy ra. Tất cả mọi cái sai đều xảy ra chỉ khi bạn bị rối loạn. Người tôn giáo thông thường nói, "Hãy trau dồi tính cách." Phật nói: Hãy trau dồi tâm thức. Thầy tôn giáo thông thường nói, "Làm điều thiện." Phật nói: Im lặng và điều thiện sẽ được làm. Điều thiện đi theo im lặng như cái bóng đi theo bạn. Và không có cách nào để làm điều thiện chừng nào bạn còn chưa im lặng. Bạn có thể làm điều thiện, nhưng chỉ điều sai xảy ra nếu bạn không im lặng. Đó là lí do tại sao cái gọi là người làm điều thiện lại cứ làm cả nghìn lẻ một điều ác trong thế giới. Cái gọi là người làm điều thiện của bạn là những người làm điều ác nhất, nhưng họ đang làm điều thiện vì bạn đấy, họ đang làm nó vì điều thiện, và bạn thậm chí không thể trốn thoát được họ.
Mọi người đều biết rằng bố mẹ tốt là bố mẹ nguy hiểm. Bố mẹ quá tốt thì nhất định là bố mẹ sai - bởi vì họ sẽ cầm tù bạn. Quá tốt là mang tính phá huỷ. Bà mẹ tốt sẽ phá huỷ bạn, bởi vì bản thân bà mẹ không được định tâm. Cái tốt của bà ấy bị ép buộc; bà ấy đang cố gắng để làm điều tốt. Cái tốt không phải là tự nhiên và tự phát. Nó không giống như cái bóng; nó là nỗ lực, nó là bạo hành. Cái gọi là các mahatma của bạn cứ làm què quặt mọi người, phá huỷ mọi người, phá huỷ tự do của họ theo nhiều cách. Họ cứ cố gắng chi phối bằng các phương pháp tinh vi, theo cách tinh tế. Nhưng toàn thể ham muốn là để chi phối, và rất dễ chi phối ai đó khi bạn là người tốt. Người đó thậm chí không thể nổi dậy chống lại bạn được. Chống lại người mẹ tệ hại, bạn có thể trốn đi; nhưng phải làm gì để chống lại người mẹ tốt? Bà ấy tốt tới mức bạn bắt đầu cảm thấy khó chịu. Quan sát điều đó đi: mọi người đều trải qua trạng thái đó, và nó phải được hiểu. Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng chấp nhận bản thân mình.
Bất kì khi nào có đứa trẻ, nhất định có xung đột nào đó giữa đứa trẻ và bố mẹ, đặc biệt giữa con và mẹ lúc ban đầu, và thế rồi về sau với bố. Điều đó là tự nhiên - bởi vì người mẹ có cách thức riêng của mình, ý tưởng riêng của mình, triết lí riêng của mình về cuộc sống phải được sống thế nào. Và đứa trẻ gần như hoang dã; nó chẳng biết về xã hội, về văn hoá, về tôn giáo. Nó tới trực tiếp từ Thượng đế; nó hoang dã như Thượng đế. Nó chẳng có gì ngoài tự do, cho nên nhất định có xung đột nào đó. Và đứa trẻ phải được khai tâm vào bức tường của xã hội. Nó không thể bị bỏ đấy một mình - điều đó nữa cũng đúng. Cho nên xung đột là tự nhiên. Nếu người mẹ rất tốt thì đứa trẻ lâm vào khó khăn, nỗi khổ và lo âu rất lớn. Lo âu là ở chỗ đứa trẻ yêu tự do của nó và nó biết, một cách bản năng, rằng tự do là tốt. Tự do là giá trị bản chất. Không có nhu cầu chứng minh rằng tự do là tốt - tự do là tốt rồi, tự nó là tốt hiển nhiên. Mọi người được sinh ra với ham muốn đó. Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta gọi mục đích tối thượng là ‘tự do toàn bộ', moksha: nơi ham muốn cố hữu được hoàn toàn đáp ứng và người ta không bị giới hạn về bất kì loại nào. Người ta tuyệt đối tự do, tự do vô điều kiện.
Mọi đứa trẻ được sinh ra với ham muốn cố hữu là được tự do, và bây giờ ở mọi nơi đều có tù túng. Người mẹ nói, "Không làm cái này, không làm cái kia, ngồi đây, không đi ra kia." Và đứa trẻ cảm thấy bị lôi kéo, xô đẩy từ mọi nơi. Bây giờ, nếu người mẹ mà xấu, thì không có mấy khó khăn; đứa trẻ có thể nghĩ rằng người mẹ là xấu và sâu trong lòng nó có thể bắt đầu ghét mẹ. Đơn giản, đó là chuyện số học - mẹ đang phá huỷ tự do của nó và nó ghét mẹ. Có thể, bởi các lí do chính trị, nó không thể bày tỏ được điều đó, cho nên nó trở thành nhà ngoại giao. Nó biết rằng mẹ là người đàn bà tồi tệ nhất trên thế giới, nhưng nó cứ dẻo môi tán đồng.
Nhưng nếu người mẹ mà tốt thế thì vấn đề nảy sinh. Thế thì đứa trẻ lúng túng để hình dung ra điều đó; người mẹ là tốt... và tự do là tốt: "Bây giờ, nếu mẹ là tốt thế thì mình phải sai, và tự do của mình phải sai. Nếu mình là tốt và tự do của mình là tốt, thế thì mẹ phải sai." Bây giờ, nghĩ rằng người mẹ sai là không thể được - bởi vì bà ấy thực sự tốt, và bà ấy cứ chăm sóc, yêu thương, và làm cả nghìn lẻ một điều cho đứa trẻ. Người mẹ thực sự tốt, đứa trẻ biết rằng mẹ là tốt. Cho nên chỉ có một khả năng để quyết định, và đó là: "Mình phải sai. Mẹ là tốt, mình phải sai."
Một khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ, "Mình phải sai," thì nó bắt đầu bác bỏ bản thân mình. Tôi thường chẳng bao giờ bắt gặp một người chấp nhận bản thân mình một cách toàn bộ. Và nếu bạn không chấp nhận bản thân mình một cách toàn bộ thì bạn sẽ không bao giờ trưởng thành - bởi vì trưởng thành là từ chấp nhận. Nếu bạn cứ bác bỏ bản thân mình, bạn đang tạo ra chia chẻ. Bạn sẽ bị tinh thần phân liệt. Phần mà bạn bác bỏ sẽ treo quanh cổ bạn như gánh nặng lớn, nỗi buồn lớn, nỗi lo âu lớn, sự căng thẳng. Bạn không thể ném nó đi được, bởi vì nó là một phần của bạn; nó không thể bị phân chia. Nhiều nhất bạn có thể ném nó vào trong vô thức. Bạn có thể trở nên không nhận biết về nó, bạn có thể quên mất nó, bạn có thể tin rằng nó không có đó. Đó là cách vô thức được tạo ra.
Vô thức không phải là thứ tự nhiên. Vô thức là bộ phận của bản thể bạn mà bạn đã bác bỏ, và bạn thậm chí còn không muốn xoá nó đi, bạn không muốn đương đầu với nó, bạn không muốn thấy rằng nó tồn tại chút nào. Nó có đó; sâu bên dưới trong bản thể bạn nó cứ thao túng bạn. Và nó sẽ lấy nhiều kiểu báo thù, bởi vì nó cũng cần diễn đạt. Bây giờ đây là toàn thể khổ của con người. Người mẹ 'tốt' có thể tạo ra ý tưởng về đứa con 'xấu'. Bản thân đứa trẻ bắt đầu tự bác bỏ mình. Đây là phân chia, chia chẻ trong cá tính. Đứa trẻ đang trở nên bị loạn thần kinh.
Bởi vì cảm thấy tốt với bản thân mình nên là điều tự nhiên và dễ dàng. Đó là điều những người thuyết giảng tôn giáo của bạn cứ làm mãi, điều các tu sĩ của bạn cứ làm mãi: đi tới đền thờ, đi tới đền chùa, đi tới nhà thờ, và họ có đó - đùng đùng, kết án, sẵn sàng ném bạn vào địa ngục, sẵn sàng thưởng cho bạn cõi trời nếu bạn nghe họ, nếu bạn theo họ. Tất nhiên bạn không thể tuân theo được bởi vì đòi hỏi của họ là không thể được, và đòi hỏi của họ là không thể được bởi vì họ không chỉ cho bạn cách thức là tốt. Họ đơn giản nói. "Hãy tốt."
Cách thức để là tốt chẳng liên quan gì tới việc là tốt cả. Cách thức để là tốt có liên quan tới việc định tâm, với nhận biết. Là tốt chẳng có liên quan gì tới tính cách của bạn cả. Người thực sự tốt không có tính cách nào cả; người đó là phi tính cách. Và khi tôi nói 'phi tính cách', tôi ngụ ý người đó không có áo giáp, không đeo giáp trụ quanh mình. Người đó không phòng thủ quanh mình, người đó đơn giản cởi mở. Người đó phi tính cách như đoá hoa. Người đó không tốt không xấu. Người đó đơn giản có đó - tỉnh táo, ý thức, đáp ứng. Nếu cái gì đó xảy ra người đó sẽ đáp ứng, nhưng người đó sẽ đáp ứng trực tiếp, người đó sẽ đáp ứng từ cái ở đây. Người đó sẽ đáp ứng từ cái bây giờ, người đó sẽ không đáp ứng từ quá khứ. 'Tính cách' nghĩa là: bạn cứ mang ra những thứ mà bạn đã học trong quá khứ của mình. 'Tính cách' nghĩa là: lương tâm đã được thuyết giảng cho bạn và áp đặt lên bạn. Lương tâm là nhà tù cho tâm thức.
Phật đã đem cuộc cách mạng vào thế giới tôn giáo, cuộc cách mạng lớn nhất đã từng có. Cuộc cách mạng là thế này: rằng ông ấy nhấn mạnh vào tâm thức và không vào lương tâm. Ông ấy nhấn mạnh vào nhận biết chứ không vào tính cách. Tất nhiên, tính cách tới một cách tự động, nhưng nó tới như cái bóng. Bạn không mang nó; nó không phải là gánh nặng. Bạn đã bao giờ quan sát chưa? - cái bóng của bạn cứ đi theo bạn, và bạn không bị nặng gánh, và bạn không cần chăm sóc tới nó. Bạn không cần nghĩ tới nó. Thậm chí bạn quên hoàn toàn thì nó vẫn sẽ có đấy. Bạn không thể làm mất nó.
Phật nói: Tính cách là thực chỉ khi bạn không thể đánh mất được nó. Nếu bạn sợ rằng bạn có thể đánh mất nó, thế thì nó là lương tâm và không phải là tâm thức.
Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu trước khi chúng ta đi vào những lời kinh này là ở chỗ con người trở nên mù quáng bởi đam mê, bởi ham muốn. Và tại sao con người trở nên mù quáng bởi đam mê và ham muốn? Bởi vì ham muốn và đam mê đem tới hai thứ: thứ nhất, không bằng lòng với hiện tại. Đó là chính gốc rễ của ham muốn. Nếu bạn hài lòng với hiện tại, ham muốn không thể tồn tại được. Ham muốn có thể tới trong sự tồn tại chỉ với không bằng lòng.
Nhìn xem... Nếu bạn đang ngồi dưới gốc cây và nếu bạn hài lòng trong khoảnh khắc này - và tôi không thấy tại sao bạn lại phải không hài lòng trong khoảnh khắc này - thế thì không có ham muốn. Và khi không có ham muốn, thì có bình thản thế, im lặng thế. Im lặng trở thành vững chắc tới mức bạn gần như có thể chạm vào nó, bạn có thể nếm trải nó, bạn có thể cầm nó trong tay mình.
Bất kì khi nào có mãn nguyện, đều không có ham muốn. Khi không có ham muốn, bạn ở nhà, thảnh thơi. Trong trạng thái thảnh thơi đó, không có tâm trí. Tâm trí là căng thẳng được tích luỹ lại. Tâm trí không phải là khả năng, tâm trí chỉ là một bó các ham muốn của bạn, mọi con sóng mà bạn cứ tạo ra. Đam mê này mất đi; trước khi nó bị mất đi bạn đã dính líu vào đam mê khác rồi. Ham muốn này được kết thúc, và thậm chí trước khi nó được kết thúc bạn bắt đầu lập kế hoạch cho chuyến đi khác vào tương lai.
Cho nên bạn cứ chạy xô tới tương lai và bạn cứ bỏ lỡ hiện diện. Và hiện diện là có thể chỉ trong hiện tại. Và khi bạn đang ở hiện tại thì không có tâm trí. Và trạng thái này của vô trí là mục đích, mục đích của phật giáo.
Khi không có căng thẳng, không suy nghĩ, không ham muốn, không đam mê, thì phấn chấn lớn lao nảy sinh trong linh hồn bạn; nó trào lên. Đó chính là phúc lành đấy. Bạn cảm thấy cực kì hạnh phúc, và bạn cảm thấy sung sướng chẳng bởi lí do nào. Bạn cảm thấy cực kì phấn chấn - nhưng phấn chấn này không có nguyên nhân cho nó. Không phải là bạn đã uống thuốc nào đó, hay rượu cồn; không phải là bạn đã tụng mật chú - bởi vì mật chú cũng làm thay đổi hoá chất của bạn. Lặp lại thường xuyên âm thanh nào đó đem lại thay đổi trong hoá chất thân thể bạn. Nó là thuốc. Câu mật chú là thuốc, thuốc rất tinh tế: nó tạo ra sóng trong bản thể bạn. Và nếu bạn cứ tụng mật chú nào đó - Aum...Aum...Aum - dần dần, âm 'Aum' làm thay đổi toàn thể hoá chất thân thể bạn.
Hay bạn có thể nhịn ăn. Và nhìn vào cái ngớ ngẩn này: những người thuyết giảng nhịn ăn đều chống lại thuốc, nhưng nhịn ăn là việc thay đổi hoá chất. Nó là thuốc cũng như bất kì thuốc nào khác. Khi bạn nhịn ăn bạn làm gì? - bạn không cung cấp những những hoá chất nào đó cho thân thể mình - những hoá chất mà, nếu không được cung cấp, cân bằng của các hoá chất bên trong sẽ bị thay đổi. Nó cũng là một cả thôi. Hoặc là bạn uống thuốc nào đó - cái làm thay đổi tỉ lệ hoá chất bên trong của bạn; hoặc bạn dừng ăn thức ăn - điều đó làm thay đổi cân bằng hoá chất bên trong của bạn. Khi mọi người cảm thấy phấn chấn, khi Mahatma Gandhi nói rằng ông ấy cảm thấy rất phấn chấn lúc ông ấy nhịn ăn, ông ấy không nói gì khác với điều Timothy Leary nói. Cả hai đều nói cùng một điều: cả hai đều nói về hoá chất. Mặc dầu thông thường chúng ta không coi nhịn ăn như thuốc, nó vẫn là thuốc - nó có thể làm cho bạn phấn chấn, nó có thể làm cho bạn thành vô trọng lượng.
Hoặc bạn có thể cứ tụng niệm. Tụng niệm tạo ra thay đổi trong hoá chất thân thể vật lí. Đó là lí do tại sao vài âm thanh lại đã trở nên rất quan trọng. Trong suốt nhiều thế kỉ nhiều người đã thử nhiều mật chú. Thế rồi vài mật chú đã thành công và vài mật chú thì thất bại. Những mật chú đã thành công là những mật chú đem lại ngay thay đổi cho hoá chất của bạn. Bạn có thể gọi nó là Thiền Siêu việt: nó lại là thuốc thôi. Bây giờ, Maharishi Mahesh Yogi rất chống lại thuốc, và bản thân thiền siêu việt TM lại là thuốc tinh vi.
Hay, bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình qua các tư thế, yoga; bạn có thể thay đổi hoá chất thân thể mình qua những kiểu thở nào đó - nhưng tất cả những thay đổi đổi đó về căn bản vẫn là hoá học. Khi bạn thở sâu bạn đem nhiều ô xi tới cho thân thể, và nhiều ô xi trong thân thể bắt đầu làm thay đổi hoá chất của bạn - bạn bắt đầu cảm thấy phấn chấn. Khi bạn không thở sâu nhiều các bô nic tụ tập lại trong phổi. Tỉ lệ thay đổi; bạn cảm thấy đờ đẫn, bạn cảm thấy ỉu xìu, bạn cảm thấy trì trệ. Vâng, từ đó là đúng đấy: bạn cảm thấy rất 'bị ép' bởi cái gì đó. Chính các bô nic đem tới trì trệ; bạn ở dưới tảng đá.
Nhưng đây tất cả đều là những thay đổi - vật lí, hoá học. Chúng không đi sâu hơn thế. Phật nói: nhận biết, nhận biết và mãn nguyện... Ông ấy thậm chí không thuyết giảng hình mẫu nào đó, nhịp điệu thở nào đó. Ông ấy nói: Để thở như tự nhiên. Ông ấy không thuyết giảng nhịn ăn; ông ấy thuyết giảng ăn đúng, đúng lượng thức ăn. Ông ấy không thuyết giảng thức trong đêm. Có nhiều giáo phái, đặc biệt là Mô ha mét giáo, những người vẫn duy trì thức cả đêm. Điều đó nữa cũng làm thay đổi hoá chất thân thể.
Phật đơn giản nói: Một điều được cần tới, và đó là ông không nên đi vào tương lai, ông nên vẫn còn trong hiện tại ở đây bây giờ. Bạn nên vẫn còn hài lòng với khoảnh khắc này. Đi cùng khoảnh khắc này, đừng đi lên trước, đừng nhảy lên trước. Cứ để không có đam mê. 'Đam mê' nghĩa là: nhảy lên trước bản thân mình. Thế thì bạn tạo ra lo âu, thế thì bạn tạo ra thất vọng, thế thì bạn tạo ra lo nghĩ, và thế thì cả nghìn lẻ một con sóng nảy sinh trên bề mặt tâm thức của bạn. Bạn trở thành tâm trí. Khi những con sóng này biến mất, bạn lại là tâm tâm thức. Thỉnh thoảng thử điều đó đi.
Gurdjieff hay cho các đệ tử của ông ấy một phương pháp. Ông ấy thường gọi nó là 'dừng việc tập'. Ông ấy dạy các đệ tử là đôi khi, đột nhiên, dừng toàn thế giới lại. Bằng việc dừng bản thân mình lại, bạn có thể dừng cả thế giới lại. Bạn đang bước đi trên đường; bỗng nhiên, với cú giật lại, bạn dừng lại. Trong nửa giây bạn đơn giản bất động. Việc bất động bất thần đó cũng sẽ giúp ích cho tâm trí dừng lại - bởi vì tâm trí cần thời gian. Nếu bạn dừng dần dần, chầm chậm, thế thì tâm trí sẽ không dừng đâu; nó sẽ được điều chỉnh. Nếu bạn đột nhiên dừng lại thế thì có cú sốc; tâm trí dừng lại. Trong khoảnh khắc của việc dừng lại bất thần đó bạn sẽ có khả năng thấy rằng toàn thế giới đã dừng lại, bởi vì tất cả mọi con sóng đều đã biến mất.
Thử nó đi. Đang nhảy múa, đột nhiên dừng lại! Đang chạy, đột nhiên dừng lại. Đang bơi, đột nhiên dừng lại. Đang nói, đột nhiên dừng lại - và trong một khoảnh khắc tuyệt đối bất động, cứ dường như bạn đã trở thành bức tượng - và bạn sẽ thấy rằng tâm trí mình đã dừng lại, trong một phần giây, tất nhiên. Rồi nó lại chiếm quyền sở hữu bạn, nhưng trong khoảnh khắc đó bạn sẽ thấy rằng nó im lặng đến mức nó sẽ trở thành thoáng nhìn, nó sẽ trở thành sự hỗ trợ lớn lao. Và bạn sẽ biết rằng đây là cách thực tế đang hiện hữu. Trong một khoảnh khắc đó, cái đang đó sẽ hiển lộ bản thân nó cho bạn. Đó chính là Thượng đế là gì đấy, hay chân lí, hay niết bàn.
Phật nói:
Khi một người làm ra vật dụng từ kim loại đã được lau kĩ càng hết mọi xỉ, vật dụng đó sẽ tuyệt diệu. Này các sư, những người muốn theo đạo, làm cho trái tim các ông sạch bụi bẩn của những đam mê ác, và hạnh kiểm của các ông sẽ không thể nghi ngờ được.
Lau sạch trái tim bạn khỏi cặn bã của đam mê. Và thực tế, để làm điều đó, chẳng cần gì nhiều. Không hẳn là trường hợp bạn bị trở nên không thuần khiết đâu. Bạn đơn giản bị quấy rối, có vậy thôi; đó là điều không thuần khiết nghĩa là gì. Bất kì khi nào bạn không bị quấy rối, thì không thuần khiết đều biến mất. Không thuần khiết không phải là cái gì đó đã đi vào trong bản thể bạn. Nó chỉ ở trên bề mặt thôi, tựa như sóng. Cho nên nếu bạn muốn nó xảy ra, nó có thể xảy ra ngay bây giờ. Và đừng chơi đùa với những lời giải thích. Đừng nói, "Làm sao nó có thể xảy ra ngay bây giờ được? Mình có nhiều nghiệp phải thanh toán trước hết." Tất cả đều vô nghĩa! thủ đoạn của tâm trí để trì hoãn. Tâm trí nói, "Làm sao mình có thể làm điều đó ngay bây giờ được? Trước hết mình phải thanh toán nghiệp của nhiều, nhiều kiếp." Nhưng bạn có biết bạn đã ở đây bao nhiêu kiếp rồi không? Hàng triệu kiếp rồi! Nếu bạn thực sự phải thanh toán các nghiệp đó, bạn sẽ lại cần hàng triệu kiếp để thanh toán chúng. Và sau khi bạn đã thanh toán chúng thì hàng triệu kiếp sẽ lại trôi qua - và trong những kiếp này bạn lại sẽ làm thêm nhiều nghiệp. Không có cách nào để tránh được điều đó. Nếu bạn sống động bạn sẽ làm điều gì đó này khác. Bạn sẽ ăn cái gì đó, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ thở, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ bước đi, nghiệp được tạo ra. Bạn sẽ ngủ, nghiệp được tạo ra. Bất kì hành động nào cũng đều là nghiệp. Cho nên đây là cái vòng luẩn quẩn. Trong hàng triệu kiếp bạn đã tồn tại; bây giờ thanh toán những nghiệp đó, lại sẽ cần tới hàng triệu kiếp. Và cho dù sau đó, không cái gì sẽ được thanh toán nữa - bởi vì trong hàng triệu kiếp sống bạn sẽ lại tạo ra nghiệp. Thế thì bạn không thể thoát ra khỏi điều này, ra khỏi cái đống lộn xộn này. Thế thì không có lối ra.
Phật nói: Bao giờ cũng có lối ra. Vấn đề không phải là thanh toán nghiệp quá khứ, vấn đề đơn giản là thanh toán trạng thái hiện tại của tâm trí, có vậy thôi.
Đó chỉ là ở đây bây giờ. Nếu bạn hiểu, việc thanh toán có thể xảy ra. Bạn chưa bao giờ làm cái gì cả; bạn đơn giản đang mơ đấy thôi. Hành động hay tác nhân, người làm và việc làm - tất cả đều là mơ.
Phật nói: cốt lõi bên trong nhất của ông đơn giản là trống rỗng. Nó chưa bao giờ làm điều gì. Nó không thể làm được. Nó là nhân chứng, bởi chính bản chất của nó.
Quan sát nó đi. Tìm ra liệu điều ông ấy nói là đúng hay không. Thử điều đó trong cuộc sống của bạn. Bạn đã là đứa trẻ, bây giờ bạn không còn là đứa trẻ nữa; thế rồi bạn đã là thanh niên, bây giờ bạn không còn trẻ nữa; bây giờ bạn đã trở nên già; thân thể thời thơ ấu đã mất rồi, tâm trí thời thơ ấu đã biến mất. Thế rồi bạn có một thân thể khác trong tuổi thanh niên của mình - cái đó đã qua đi. Cường tráng, sống động, tuổi thanh xuân, cái đẹp - mọi thứ đều đã biến mất. Bạn đã có một kiểu tâm trí khác - quá tham vọng, quá ham muốn, quá bản ngã. Bây giờ tất cả những cái đó đều là câu chuyện của quá khứ. Bây giờ cái chết đang tới; bạn có thể nghe thấy âm thanh của việc tới của nó mỗi ngày một gần hơn. Bạn có thể cảm thấy rằng mọi ngày khoảng cách đang trở nên nhỏ dần. Nhưng quan sát một điều: bạn vẫn còn như cũ. Cốt lõi bên trong nhất của bạn đã không thay đổi một chút nào, nó đã không thay đổi chút nào. Khi bạn là đứa trẻ, nó vẫn là cùng tâm thức đó quan sát từ đằng sau. Bạn là thanh niên; nó vẫn là cùng tâm thức đó, quan sát. Thế rồi bạn trở nên già; nó vẫn là cùng tâm thức đó.
Cứ dường như tâm thức là tấm gương. Đứa trẻ đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu đứa trẻ; thanh niên đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu thanh niên đó; ông già đứng trước tấm gương, tấm gương phản chiếu ông già này - nhưng tấm gương thì không là đứa trẻ, không là thanh niên, không là ông già. Và khi tất cả đều đã qua đi đơn giản chỉ còn tấm gương phản chiếu cái không, chỉ hiện hữu ở đó.
Tâm thức bạn là tấm gương.
Biểu dụ này về tấm gương là cực kì có ý nghĩa. Nó sẽ rất có ích về Đạo nếu bạn có thể hiểu được nó. Tâm thức đang đứng đằng sau, quan sát. Nó là nhân chứng. Mọi sự tới rồi đi... cũng giống như bộ phim. Bạn ngồi trong rạp chiếu phim; trên màn ảnh nhiều điều tới rồi đi. Đôi khi bạn bị đồng nhất nữa. Đôi khi bạn trở nên bị đồng nhất với diễn viên. Có thể anh ta đẹp, mạnh mẽ, có duyên, duyên dáng của cá tính, gây ấn tượng, có sức hấp dẫn nào đó: bạn bị đồng nhất, bạn quên mất bản thân mình. Trong một khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ cứ dường như anh ta là bạn. Đôi khi điều xảy ra là có một cảnh rất buồn, và bạn bắt đầu khóc. Mắt bạn đẫm lệ... và chẳng có gì trên màn ảnh cả - chỉ là ánh sáng và bóng tối trôi qua. Và bạn biết điều đó chứ, nhưng bạn đã quên mất trong một khoảnh khắc. Nếu bạn nhớ điều đó, bạn sẽ bắt đầu tự cười mình: "Mình làm gì thế này? kêu à? khóc à?" Nhưng điều đó xảy ra khi bạn đọc tiểu thuyết nữa. Ít nhất có cái gì đó trên màn ảnh. Đọc tiểu thuyết thì chẳng có gì cả - không màn ảnh, không diễn viên, chẳng có gì. Chỉ trong tưởng tượng riêng của bạn mà tiểu thuyết cứ diễn ra mãi. Và bỗng nhiên đôi khi bạn cảm thấy rất hạnh phúc, và đôi khi bạn cảm thấy rất buồn; bầu không khí của tiểu thuyết bắt đầu sở hữu bạn.
Đây đích xác là điều đang xảy ra trong cuộc sống. Cuộc sống là một sân khấu lớn, một vở kịch lớn. Và nó rất phức tạp - bởi vì bạn là diễn viên, và bạn là đạo diễn, và bạn là cuốn phim, và bạn là màn ảnh, và bạn lá máy chiếu, và bạn là khán giả nữa. Bây giờ bạn là tất cả các tầng: một phần đóng vai trò của diễn viên, phần khác chỉ đạo, phần khác vận hành như màn ảnh, phần khác có tác dụng như máy chiếu. Và đằng sau tất cả những cái đó là thực tại của bạn - nhân chứng, người đang quan sát.
Người quan sát này... Một khi bạn bắt đầu cảm thấy sự tồn tại của nó, một khi bạn bắt đầu được lắng đọng với nó, ngày một hoà điệu với nó, thế thì bạn sẽ thấy điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói tâm thức là tấm gương. Tấm gương không bao giờ bị ô uế, nó chỉ dường như vậy thôi. Bạn có thể để cả đống phân trước tấm gương; tất nhiên, nó sẽ phản chiếu đống phân đó. Nhưng dầu vậy tấm gương vẫn không bị ô uế, nó không bị ô nhiễm. Nó không trở nên không thuần khiết bởi vì đống phân được phản chiếu trong nó. Nó vẫn còn thuần khiết. Bỏ phân đi và tấm gương có đó trong mọi sự thuần khiết của nó. Ngay cả khi phân được phản chiếu thì tấm gương cũng vẫn không bị ô uế. Cho nên bất kì điều gì là không thuần khiết thì đều thực sự là việc phản chiếu; nó được soi gương. Và Phật nói: Nếu ông đánh sạch xỉ này, bụi của điều ác và đam mê, hạnh kiểm của ông sẽ không thể nghi ngờ được.
Cho nên nhấn mạnh không vào hạnh kiểm. Nhấn mạnh là vào thuần khiết tựa tấm gương của tâm thức.
Phật nói:
Ngay cả nếu người ta thoát ra từ việc tạo tác ác, vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm người.
Đây là bẩy vận may hi hữu lớn lao. Phật nói về chúng nhiều lần, theo nhiều cách. Chúng phải được hiểu; chúng có tầm quan trọng lớn lao.
Thứ nhất: vận may hi hữu là được sinh ra làm người. Tại sao? Tại sao lại không phải là vận may hi hữu để được sinh ra như chó? hay như trâu? hay như lừa? hay như cây? hay như đá? Tại sao ân huệ hi hữu lại là được sinh ra làm người? - bởi vì ngoại trừ con người, toàn thể tự nhiên đều đang ngủ say. Bạn cũng không thức tỉnh. Để tôi nhắc lại: toàn thể tự nhiên đang ngủ ngoại trừ con người, và con người cũng không thức tỉnh, mà ở chính giữa.
Đôi khi điều xảy ra buổi sáng là bạn cứ lật mình và trở mình trên giường. Bạn biết rằng bây giờ là lúc dậy, mà dầu vậy vẫn còn giấc ngủ. Nó là trạng thái lưng chừng. Bạn có thể nghe thấy người đưa sữa nói với vợ mình, bạn có thể nghe thấy tiếng trẻ con léo nhéo và chuẩn bị đi tới trường, bạn có thể nghe thấy tiếng xe bus dừng bên ngoài nhà để đón lũ trẻ, và dầu vậy việc mơ vẫn tiếp tục. Bạn vẫn cảm thấy buồn ngủ, mắt vẫn nhắm. Thỉnh thoảng bạn trôi giạt vào giấc ngủ, thỉnh thoảng bạn trôi giạt ra khỏi nó. Đây là trạng thái của con người.
Và Phật nói: Đó là ân huệ hi hữu - bởi vì toàn thể tự nhiên đang trong ngủ rất say, ngủ say tới mức thậm chí không có mơ. Nó đang trong trạng thái sushupti. Con người đã đi tới trạng thái thứ hai: trạng thái của việc mơ. Ít nhất có mơ nào đó. Mơ nghĩa là bạn không ngủ say thêm nữa. Bạn chắc chắn không thức tỉnh, bởi vì khi bạn trở nên thức tỉnh thì bạn thành vị phật. Bạn đang ở đâu đó lưng chừng giữa con vật và vị phật. Bạn đang treo trong trình trạng lấp lửng.
Và Phật nói: Đó là một cơ hội lớn lao, một ân huệ hi hữu - bởi vì nếu bạn nỗ lực thêm chút ít thì bạn có thể trở nên thức tỉnh. Chó không thể trở nên thức tỉnh được, dù nó nỗ lực đến đâu. Cây không thể trở nên thức tỉnh được; dù nó cố gắng đến đâu, điều đó là không thể được. Nếu cây cố gắng cần mẫn, nó sẽ trở thành chó. Nếu chó cố gắng cần mẫn, chó có thể trở thành người. Nhưng thức tỉnh chỉ xảy ra khi bạn là con người. Con đường đi tới Thượng đế chỉ đi từ con người thôi. Và ở phương Đông chúng ta nghĩ - và ý nghĩ này có nhiều tính hợp thức trong nó - rằng ngay cả các devas, các thiên thần, các thần, cũng không được ân huệ như con người đâu. Vì sao? Bởi vì con người đứng ở ngã tư đường. Ngay cả các thần mà muốn được giải thoát, họ sẽ phải được sinh ra như con người.
Con vật đang ngủ say, con người ở ngay điểm giữa đường, và các thần ở trong mơ của họ quá nhiều. Thế giới các thần là thế giới mơ. Đó là lí do tại sao họ có nhiều cảnh tượng hay thế: nó là thế giới mơ, tưởng tượng. Họ sống trong tưởng tượng. Con người sống ở ngay giữa đường, và có khả năng con người có thể đi tới những trạng thái thức tỉnh hơn của hiện hữu. Con người có thể trở thành sự thức tỉnh.
... vận may hi hữu của người ta là được sinh ra làm người.
Cho nên đừng bỏ lỡ cơ hội lớn lao này. Chỉ sau tranh đấu rất lớn lao bạn mới được sinh ra làm người. Làm phí hoài nó quả là đơn giản lố bịch. Trong hàng triệu kiếp bạn đã đi tới trạng thái này. Bởi vì bạn đã tới, bạn có thể phá huỷ nó chỉ bằng việc ăn, uống và vui vẻ. Bạn có thể đơn giản đánh mất toàn thể cơ hội này. Có những người mà nếu bạn bảo họ cầu nguyện hay thiền, họ sẽ nói, "Thời gian đâu? Chúng tôi không có thời gian." Và thế rồi bạn có thể thấy họ chơi bài trong câu lạc bộ, và bạn hỏi, "Anh đang làm gì vậy?" Và họ nói, "Giết thời gian" - vẫn cùng những người đó. Khi đó là vấn đề về việc thiền họ nói, "Nhưng không có thời gian." Và khi đó là vấn đề uống rượu, hay đánh bạc, hay đi xem phim, hay chỉ ngồi dính chặt hàng giờ trước chiếc ti vi, họ lại có đủ thời gian. Thế thì bạn hỏi họ; họ nói, "Chúng tôi đang giết thời gian."
Bạn đang giết thời gian, hay thời gian đang giết bạn? Ai đã từng có khả năng giết thời gian? Bằng không, với bao nhiêu người đã từng giết thời gian như vậy, thì đến lúc này, thời gian chắc phải chết rồi. Chẳng ai đã từng có khả năng giết thời gian. Thời gian giết mọi người. Từng khoảnh khắc - thời gian đều đem tới cái chết. Ở Ấn Độ chúng ta có cùng một từ cho cả hai: thời gian chúng ta gọi là kal; và với cái chết chúng ta cũng có cùng cái tên, kal... bởi vì thời gian đem tới cái chết.
Thời gian là cái chết. Từng khoảnh khắc, bạn đang trượt vào trong cái chết. Từng khoảnh khắc, cái chết đang tới ngày một gần hơn, gần hơn. Mọi đồng hồ đều phục vụ cho cái chết. Toàn thể thời gian đều phục vụ cho cái chết. Và làm người chính là một cơ hội hi hữu, và rất dễ đánh mất nó. Phật nhắc nhở chúng ta. Điều thứ hai ông ấy nói:
Nếu người ta sinh ra được làm người, vận may hi hữu của người ta là có sáu giác quan hoàn chỉnh.
Có những người có thể được sinh ra là người, nhưng lại mù, hay điếc, hay câm, hay đầu óc trì trệ. Thế nữa cũng là điều không thể được - Chẳng ai đã từng nghe nói về bất kì người đầu óc trì trệ nào lại trở thành vị phật. Điều đó chưa bao giờ được biết tới, điều đó là không thể có được. Cần có thông minh lớn lao. Rất khó trở nên nhận biết nếu giác quan của bạn bị thiếu - bởi vì với nhận biết, nhạy cảm là điều phải có. Người có mắt và người không có mắt ở hai trạng thái khác nhau, trạng thái khác hẳn nhau. Người có mắt nhạy cảm hơn, bởi vì mắt là phần nhạy cảm nhất của thân thể. Tám mươi phần trăm nhạy cảm của bạn thuộc vào mắt. Người mù chỉ có hai mươi phần trăm nhạy cảm so với người có mắt. Người mù bị bao trong bóng tối tinh tế, và không có cách nào để thoát ra khỏi nó. Người đó sống bị bao quanh trong một nhà tù rất tinh tế. Rất khó thoát ra khỏi nó.
Đôi mắt bên ngoài của bạn cho bạn thoáng nhìn nào đó, tầm nhìn nào đó, và bạn có thể bắt đầu suy nghĩ về con mắt bên trong nữa. Nhưng người không có con mắt bên ngoài thì không thể quan niệm nổi về con mắt thứ ba là gì. Người chưa bao giờ nhìn thấy cái gì thì không thể có cái nhìn thấu suốt được. Nếu cái ‘nhìn ra' bị thiếu, cái nhìn vào sẽ bị thiếu; chúng tồn tại theo cặp. Đó là lí do tại sao khi bạn thấy người mù, lòng từ bi lớn lao lại nảy sinh trong bạn. Chỉ quan sát người mù người ta cảm thấy rất, rất từ bi. Tại sao? Người này khuyết tật nhiều thế. Người này là con người đấy, vậy mà tám mươi phần trăm kinh nghiệm mầu sắc, ánh sáng, lại bị thiếu. Toàn thể cuộc sống của người đó là vô mầu; người đó không biết mầu lục là gì. Nghĩ về bản thân bạn mà xem: nếu bạn chưa bao giờ biết tới hoa hồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy cầu vồng, nếu bạn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời mọc và mặt trời lặn, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt người đàn bà hay đàn ông đẹp, nếu bạn chưa bao giờ thấy cái đẹp, con mắt hồn nhiên của đứa trẻ, nếu bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt, vẻ duyên dáng của người đã đạt tới, bị bạn bị lỡ biết bao nhiêu.
Bạn sẽ giống như tảng đá, ít giống con người.
Phật không chống lại giác quan; câu này sẽ chứng minh điều đó cho bạn. Phật nói: Cảm giác, và thèm khát cảm giác là xấu, nhưng giác quan là tốt. Và mang tính nhạy cảm là tuyệt đối cần thiết. Cho nên trở nên nhạy cảm hơn đi.
Để tôi làm điều đó rõ ràng cho bạn. Nếu bạn dùng mắt chỉ để đạt tới thèm khát và bạn cứ tìm kiếm thèm khát, thế thì mắt bạn sẽ dần dần trở thành đờ đẫn. Con mắt thèm khát bao giờ cũng đờ đẫn. Con mắt thèm khát bao giờ cũng xấu. Nếu một người nhìn bạn với con mắt thèm khát, bạn bỗng nhiên cảm thấy bị xúc phạm - người đó đang xâm phạm. Mắt người đó giống như con dao đâm vào tim. Người đó không phải là người có văn hoá, người đó không lịch sự chút nào.
Chuyện xảy ra:
Mulla Nasruddin đi vào một văn phòng; anh ta phải đã tới bởi công việc nào đó. Tiếp viên là một người đàn bà đẹp. Anh ta nhìn cô ấy với đôi mắt thèm khát thế, và rồi anh ta hỏi, "Phòng tắm ở đâu?" Người đàn bà nói, "Anh đi thẳng tới cuối hành lang. Anh sẽ thấy một phòng có dấu hiệu 'Nam' - và đừng để dấu hiệu đó ngăn cản anh. Cứ đi vào."
Khi bạn nhìn người đàn bà với đôi mắt thèm khát thì bạn không phải là quí ông lịch sự. Thực sự, bạn có chút ít vô nhân. Khi đôi mắt nhạy cảm, không thèm khát, chúng có chiều sâu. Khi mắt không nhạy cảm, mà chỉ thèm mãnh liệt cảm giác, chúng nông cạn. Và bạn sẽ thấy chúng đục ngầu: chúng sẽ không trong suốt. Khi đôi mắt cực kì nhạy cảm, thế thì chúng có chiều sâu, chiều sâu trong suốt. Bạn có thể nhìn vào chúng và bạn có thể đạt tới chính trái tim của người đó. Người đó trở thành sẵn có qua đôi mắt của mình, và qua đôi mắt bạn có thể thấy mình đang gặp kiểu người nào.
Mắt mang tính rất chỉ dẫn. Đó là lí do tại sao những kẻ phạm tội không bao giờ nhìn thẳng vào mắt bạn, họ sẽ tránh điều đó. Người phạm tội sẽ nhìn sang bên cạnh, họ sẽ không nhìn thẳng - bởi vì họ không hồn nhiên. Họ biết rằng mắt họ có thể tiết lộ, mắt họ có thể nói điều gì đó mà họ không muốn nói. Nếu bạn có thể quan sát mắt người, bạn có chính chiếc chìa khoá vào cá tính người đó.
Và cùng điều đó cũng đúng cho các giác quan khác. Nghĩ về người điếc, người không nghe được. Wagner, người đã không nghe được, Ravi Shankar, người đã không nghe được chim hót vào buổi sáng, với họ chim cu cu không tồn tại, người đã không nghe ai đó hát bài tình ca hay bài ca buồn, với người đó sáo chỉ là thanh trúc hổng. Nghĩ xem người đó nghèo nàn làm sao.
Phật nói: Ân huệ đầu tiên là ở chỗ ông được sinh ra làm người, ân huệ thứ hai là ông được sinh ra với sáu giác quan. Bây giờ dùng cơ hội này; trở nên ngày một nhạy cảm hơn đi. Và làm sao bạn có thể trở nên nhạy cảm hơn? Khi bạn không thèm khát, bạn trở nên nhạy cảm hơn. Khi bạn thèm khát, tính nhạy cảm của bạn bị mất; bạn trở thành nông cạn. Người không thèm khát, dần dần, thu được nhiều năng lượng thế. Nếu một người mà không có thèm khát, thì tất cả các giác quan của người đó trở thành cửa sổ rõ ràng - không khói, không rào chắn. Và bên trong và bên ngoài gặp gỡ qua sự nhạy cảm đó.
Ngay cả khi người đó được hoàn chỉnh trong sáu giác quan, vận may hi hữu của người đó là được sinh ra vào thời của phật. Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời phật,
Và Phật nói: Ông có thể là con người, ông có thể được sinh ra với tất cả các giác quan hoàn hảo, nhưng nếu ông không được sinh ra trong thời của phật thì ông sẽ bỏ lỡ sự tiếp xúc với cái không biết. Bạn có thể thấy cây, bạn có thể thấy hoa, bạn có thể thấy sao, nhưng những điều này không là gì nếu so với con người của chứng ngộ - bởi vì ông ấy đại diện cho cái không biết trong thế giới của cái biết. Ông ấy đem tia sáng của Thượng đế vào bóng tối của trái đất. Ông ấy là việc nở hoa thực của tâm thức.
"Điều đó là hi hữu," Phật nói, "được sinh ra vào thời của phật." Thực tế, chính ân huệ lớn lao là được cư ngụ cùng thời gian, cùng không gian, khi vị phật cư ngụ - bởi vì cái gì đó của rung động sống của ông ấy nhất định chạm tới bạn. Sự hiện diện của ông ấy nhất định trở thành mưa rào phúc lành. Cho dù bạn không bao giờ tới ông ấy, cho dù bạn chống lại ông ấy, cho dù ông ấy đi qua thị trấn của bạn và bạn không có thời gian tới thăm ông ấy, cho dù thế thì bình thản của ông ấy vẫn đem cái gì đó tới bạn, cái gì đó không được yêu cầu. Ông ấy sẽ đạt tới cái không được mời của bạn. Nghĩ xem: nếu Phật mà không được sinh ra, thế giới này đã không như thế rồi. Và người Ki tô giáo đã làm rất giỏi để bắt đầu lịch của họ theo Christ. Điều đó là tốt - Christ tạo ra sự gián đoạn vô cùng với quá khứ. Chỉ sự tồn tại của ông ấy thôi - Christ là vị phật - sự tồn tại của ông ấy đã tạo ra một lịch sử hoàn toàn khác. Điều tốt là người Ki tô giáo đã ghi ngày tháng lịch sử của họ theo sau Christ và trước Christ. Trước Christ nó chẳng là cái gì; tất cả đều bình thường. Sau Christ một hiện tượng vô cùng đã bắt đầu đi vào một độ cao khác.
Ở Ấn Độ chúng ta không thể làm được điều đó, bởi vì chúng ta đã bắt gặp biết bao nhiêu chư phật. Thật khó cho chúng ta để làm điều đó theo cách đó. Bằng không thì đã có biết bao nhiêu là lịch, và điều đó sẽ gây lẫn lộn. Nhưng bất kì khi nào vị phật tồn tại nhân loại đều lấy một chỗ ngoặt, chỗ ngoặt đi lên. Bất kì khi nào vị phật đi vào lịch sử, lịch sử không bao giờ còn như cũ - toàn bộ viễn cảnh thay đổi. Và khi phật đang trong hiện tại thì rất dễ cho bạn thiền, bởi vì năng lượng của ông ấy đang chuyển động. Bạn có thể đơn giản cưỡi lên con sóng của ông ấy. Khi bạn làm việc thiền một mình và vị phật không hiện diện, bạn đang tranh đấu đơn thương độc mã với những rào chắn lớn thế; điều đó gần như không thể nào được, không có thể được, tới mức bạn sẽ là kẻ chinh phục. Có Phật điều đó gần giống thế này.
Ramakrishna thường nói, "Khi gió thổi theo đúng hướng, bạn đơn giản để cho con thuyền của mình trong dòng chảy và gió sẽ đem nó đi. Chỉ đợi cho đúng hướng thôi; thế thì bạn không cần làm nỗ lực gì. Bạn đơn giản ngồi trong thuyền, gió sẽ đem nó đi." Khi Phật đang thổi và toàn thể sự tồn tại đang nổi sóng, thế thì mọi thứ đang đi tới Thượng đế. Bạn có thể đơn giản nắm tay, và bạn có thể cưỡi lên con sóng này rất dễ dàng. Bạn có thể đơn giản để cho chiếc thuyền của mình trong dòng chảy, và dòng chảy đang đi đấy.
Do đó Phật là phải khi ông ấy nói: Được sinh ra vào thời của phật là cơ hội hi hữu.
Ngay cả nếu người đó được sinh vào thời vị phật, vận may hi hữu của người đó là được gặp người chứng ngộ.
Nhưng khó khăn có đó: bạn có thể được sinh ra vào thời của Phật nhưng bạn có thể chẳng bao giờ gặp ông ấy - bởi vì ngay chính ý tưởng rằng ai đó đã chứng ngộ là ngược lại bản ngã của bạn. Bạn không thể tin được rằng ai đó đã chứng ngộ còn bạn thì không. Không thể nào có chuyện ai đó đã đi lên trước bạn. Bạn không thể tin được điều đó bởi vì bản ngã của mình, và bạn sẽ tìm cả nghìn lẻ một lí do để không đi tới vị phật. Bạn sẽ tìm các lí lẽ rằng ông ấy sai, rằng ông ấy mắc chứng hoang tưởng, rằng ông ấy cứ nói đại, rằng ông ấy không thực là vị phật - "Bằng chứng là gì?" Mọi người thường tới Phật và hỏi, "Bằng chứng của ông là gì? Ai là nhân chứng cho ông?"
Bây giờ đây là những câu hỏi ngu xuẩn. Ai có thể là nhân chứng đây? Phật tính xảy ra trong sự một mình sâu sắc đến mức không ai có thể là nhân chứng được. Nó không phải là hành động trong thế giới này, nó là hành động bên ngoài thế giới. Ai có thể là nhân chứng? Nó xảy ra trong tính một mình vô cùng. Nó xảy ra ở cốt lõi bên trong nhất; không ai có thể thấy được nó. Vị Phật phải tự công bố; không có cách khác. Và ai sẽ xác nhận rằng ông ấy là vị phật? Mọi người hay tới ông ấy và họ sẽ tìm cả nghìn lẻ một cách để chứng minh rằng bất kì cái gì ông ấy nói đều đã trùng hợp hay không trùng hợp với kinh sách cổ. Nó chưa bao giờ trùng hợp cả; nó không thể thế được, theo chính bản chất của mọi sự. Bởi vì bất kì khi nào ai đó trở nên chứng ngộ, người đó đều đem một tầm nhìn khác vào trong thế giới, điều chưa bao giờ tồn tại trước đó.
Từng người chứng ngộ đều đem món quà mới cho thế giới, điều chưa tồn tại trước đây. Cho nên nếu bạn nhìn vào trong Veda bạn có thể không tìm thấy nó; nếu bạn nhìn vào Upanishad bạn có thể không tìm thấy điều Phật đang nói. Điều đó sẽ có vẻ như chút ít nổi dậy, không chính thống. Người chứng ngộ mang tính nổi dậy, là không chính thống, bởi vì chân lí mang tính nổi dậy và chân lí là không chính thống. Cho nên bất kì khi nào vị phật tới, mọi người bắt đầu nhìn vào kinh sách cổ của họ để xem liệu có bằng chứng không, và điều đó thì chẳng bao giờ xảy ra cả.
Khi Christ tới người Do Thái bắt đầu nhìn vào kinh sách cổ của họ, và họ chẳng bao giờ trở nên được thuyết phục rằng con người này là Chúa cứu thế mà họ đã chờ đợi. Họ đã đóng đinh ông ấy. Tại sao? - bởi vì họ không thể hình dung được điều đó.
Mọi người tin vào kinh sách. Kinh sách là thứ chết, và kinh sách do bạn làm ra, do bạn thu thập lấy, do bạn diễn giải. Không ai biết kinh sách thực sự ngụ ý gì. Không ai có thể biết được - bởi vì lời có đó, nhưng nội dung phải do bạn trao cho.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin tới bác sĩ và nói, "Tôi rất lo nghĩ. Một tuần trước, tôi về nhà thấy vợ tôi đang trong tay một người đàn ông khác, người này đã nói với tôi trong lúc đi ra uống cà phê. Năm đêm sau, lại đích xác điều đó xảy ra."
"Anh bạn quí ơi," bác sĩ nói, vậy anh cần gì bác sĩ. Anh cần luật sư chứ."
"Không đâu," Mulla khăng khăng, "tôi cần bác sĩ thực. Tôi muốn biết liệu tôi có uống quá nhiều cà phê không."
Bây giờ điều đó là tuỳ... cách bạn nhận điều gì đó, cách bạn diễn giải nó. Diễn giải nhất định tới từ tâm trí bạn.
Nghe một giai thoại.
Đó là đêm trăng mật của họ, và cô dâu Do Thái đã mặc bộ áo ngủ mỏng tang và bò vào giường, phát hiện ra anh chồng theo nhà thờ Tân giáo đang sắp đi ngủ trên tràng kỉ. Lúc đó là tháng chay Lent, lúc mà người Ki tô giáo dừng ít nhất một trong những việc hưởng thú của họ.
"George ơi," cô ấy gọi, "anh không định làm tình với em sao?"
"Anh không thể làm được, em yêu," anh ta đáp, "bởi vì đó là Lent."
"Sao thế, điều đó khủng khiếp quá!" cô ấy kêu lên, buột khóc. "Làm với ai? và bao lâu?"
Bạn hiểu không?
Bây giờ tâm trí đam mê, tâm trí thèm khát, có cách diễn giải riêng của nó. Lời chẳng thành vấn đề gì nhiều; bạn phóng chiếu ý tưởng của mình lên lời. Nếu bạn đang tìm cái gì đó bạn sẽ có thể thấy nó. Nếu bạn không tìm cái gì đó bạn có thể không thấy nó. Và khuynh hướng tự nhiên của tâm trí con người là trước hết phủ nhận rằng ai đó đã đạt tới. Điếu đó xúc phạm tới bản ngã. Đó là lí do tại sao điều đó lại rất khó cho bạn.
Nếu ai đó tới và nói rằng người khác, hàng xóm của bạn, là kẻ giết người, bạn tin ngay lập tức. Bạn chẳng bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Bạn nói, "Tôi đã biết anh ta từ lâu rồi. Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng anh ta là thế." Nếu ai đó tới và nói, "Người kia là kẻ cắp, vô đạo đức," thế này thế nọ, bạn chẳng bao giờ bận tâm về bất kì bằng chứng nào. Nếu mọi người bận tâm về bằng chứng thì đã không có nhiều buôn chuyện trong thế giới này. Ai bận tâm tới bằng chứng? Khi ai đó bị kết án bạn lập tức tin ngay điều đo bởi vì điều đó cho bạn cảm giác rằng bạn tốt hơn người khác. Nhưng nếu ai đó tới và nói, "Một người đã trở thành thiền nhân, thiền nhân vĩ đại," lập tức có nghi ngờ. Bạn nghe điều đó nhưng bạn không muốn nghe đâu. Bạn nói, "Điều đó không thể được. Tôi biết người đó mà; anh ta là kẻ lừa dối. Làm sao anh ta có thể thiền được? Tôi biết anh ta từ chính thời trẻ con; chúng tôi đã là đồng sinh trong trường. Không, anh ta không thể thế được. Bằng chứng là gì?" bạn hỏi. Bất kì khi nào ai đó nói về ai đó khác là tốt, bạn đều đòi hỏi bằng chứng bởi vì điều đó làm tổn thương bản ngã bạn: "Thế là ai đó khác đã trở thành tốt trước mình sao?"
Khi vị phật bước đi trên đất ông ấy công bố điều không thể có được, điều mà chỉ hiếm khi mới xảy ra. Ông ấy đang nói ông ấy đã trở thành vị phật, và tất nhiên chỉ ông ấy mới có thể nói được điều đó. Không có cách khác để chứng minh hay bác bỏ điều đó. Phát biểu của ông ấy là không chứng minh được hay không bác bỏ được - và bản ngã của bạn bị tổn thương.
Phật nói: Vận may hi hữu là được sinh ra vào thời của phật, và thậm chí vận may hi hữu hơn là được gặp người đã chứng ngộ - để đi tới, để cúi lạy. Bởi vì chỉ nếu bạn cúi lạy, nếu bạn buông xuôi, thì bạn mới có khả năng thấy được. Vấn đề không phải ở con mắt vật lí. Nhiều người đã thấy Phật bước đi, đi từ thị trấn nọ sang thị trấn kia, nhưng họ lại không phải là những người đã thấy ông ấy. Chỉ vài cá nhân hi hữu trở thành đệ tử của ông ấy mới thấy được. Bởi vì không thể nào thấy được vị phật mà lại không trở thành đệ tử. Nếu bạn đã thấy, thế thì bạn đã thấy; và thế thì bạn không thể lại như cũ được nữa. Thế thì toàn thể cuộc sống của bạn bị đảo lộn. Thế thì bạn đang trong hỗn độn, thế thì bạn được tái sinh. Thế thì sẽ có sụp đổ hoàn toàn của quá khứ của bạn, có sinh thành mới, và tất nhiên, tất cả mọi đau đớn bao giờ cũng có trong sinh thành mới.
... Ngay cả nếu người đó có khả năng gặp người chứng ngộ, vận may hi hữu của người đó là có trái tim được thức tỉnh trong tin cậy.
Bạn có thể thấy, nhưng điều đó cũng không nhiều nhặn mấy. Chừng nào tin cậy còn chưa nảy sinh trong bạn...
... Trái tim được thức tỉnh trong tin cậy. Cố hiểu từ 'tin cậy' này. Nó không ngụ ý đức tin. 'Đức tin' nghĩa là giáo điều; 'đức tin' nghĩa là tin vào giáo điều. Chẳng hạn, người Ki tô giáo tin vào Ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần thiêng liêng. Đây là đức tin. Hay, người Hindu tin vào ba khuôn mặt của Thượng đế; đó là đức tin.
Khi bạn đương đầu với vị phật và bạn tin cậy vào người này, thế thì đó là tin cậy. Tin cậy mang tính cá nhân; đức tin mang tính lí thuyết, quan niệm. Tin cậy giống như tình yêu - bạn rơi vào tin cậy cũng như bạn rơi vào tình yêu. Nó không phải là đức tin. Không phải là Phật đã thuyết phục bạn về cái gì đó. Không, sự hiện hữu của ông ấy đã thuyết phục bạn về bản thể riêng của ông ấy. Ông ấy đã thuyết phục bạn không tin vào giáo điều, ông ấy đã thuyết phục bạn rằng cái gì đó đã xảy ra ở đây trong con người này. Bạn đã trở nên được thuyết phục về sự kiện rằng đây là một con người đã được biến đổi, được siêu việt, người không còn của thế giới này nữa. Đó là sự tin chắc, tin chắc mang tính cá nhân. Nó không phải là lí lẽ, nó không phải là thần học - nó là chuyện tình.
Khi mọi người tới tôi để được điểm đạo mang tính chất sannyas, tôi ngay lập tức có thể phân biệt liệu đó là tin cậy hay đức tin. Có hai kiểu người: người này tới và nói, "Bất kì điều gì thầy nói cũng đều thuyết phục tôi. Lí lẽ của thầy là siêu. Lập luận của thầy hấp dẫn tôi." Bây giờ, người này đã tới tôi như người tin. Người đó đã không thực sự tới. Một ngày nào đó người đó có thể tìm thấy ai đó, người có thể ‘hoá giải đức tin’ của anh ta với tôi - bởi vì có thể có lí lẽ hay hơn. Bao giờ cũng có khả năng này, bởi vì logic là con dao hai lưỡi; nó cắt theo cả hai cách. Cùng lí lẽ đó có thể được dùng để phá huỷ sự thuyết phục, cùng lí lẽ đó có thể được dùng để tạo ra nó. Logic giống như kẻ mãi dâm, hay giống như luật sư. Nó có thể đi cùng bất kì ai, với bất kì ai trả giá.
Chuyện xảy ra:
Trong giờ uống cà phê có cuộc thảo luận lớn. Một triết gia một hôm nói trong giờ uống cà phê, "Nếu các ông cho tôi hệ thống logic của Aristotle, tôi sẽ áp đặt cho kẻ thù của mình một kết luận. Cứ cho tôi phép tam đoạn luận và đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Triết gia khác nói, "Nếu các ông cho tôi hệ thống chất vấn của Socrates thì tôi sẽ dồn kẻ thù của mình vào trong góc và đánh bại anh ta ngay lập tức. Đó là mọi điều tôi yêu cầu."
Mulla Nasruddin, sau khi nghe tất cả những điều này nói, "Các anh trai, nếu các anh cho tôi chút ít tiền mặt, tôi bao giờ cũng giành được quan điểm của mình tôi bao giờ cũng kéo kẻ thù của mình vào một kết luận bởi vì chút ít tiền mặt dễ hiểu cực kì hơn sự hiểu biết."
Logic không phải rất căn bản; nó là hời hợt. Nếu ai đó tới và anh ta nói rằng anh ta tin vào điều tôi nói, thế thì đó không phải là tin cậy. Nhưng có vài người hiếm hoi nói, "Chúng tôi không biết điều thầy đang nói, chúng tôi thậm chí chẳng hiểu gì mấy. Chúng tôi thích điều thầy nói, nhưng đó không phải là vấn đề. Chúng tôi rơi vào tình yêu với thầy." Tin cậy đã nảy sinh. Bây giờ, không ai có thể phá huỷ tin cậy này được, bởi vì nó là phi logic.
Bạn không thể phá huỷ được tin cậy bởi vì nó không dựa trên logic. Bất kì cái gì dựa trên logic cũng đều có thể bị phá huỷ: nếu bạn có thể co kéo logic nó sẽ sụp đổ. Nó có nguyên nhân; kéo nguyên nhân ra và hậu quả sẽ biến mất. Nhưng tin cậy không có nguyên nhân. Nó cũng giống như rơi vào tình yêu. Nếu bạn đi tới Majnu và chứng minh cho anh ấy rằng Laila không phải là người đàn bà đẹp nhất trên thế giới, và về mặt logic bạn cứ chứng minh điều đó, anh ta sẽ nói, "Đừng tự gây khó xử cho mình một cách không cần thiết thế. Chẳng ai có thể chứng minh được điều đó đâu."
Điều thực tế đã xảy ra là vua của thị trấn của Majnu đã triệu anh ta tới. Nhà vua trở nên rất tốt với anh ta. Majnu đã đi, kêu khóc và gào thét trên phố trong đêm. Anh ta chỉ gọi, "Laila! Laila!" Và nhà vua trở nên rất từ bi. Ông ta triệu anh ta tới và ông ta nói, "Anh là kẻ ngốc. Ta đã thấy Laila của anh; cô ấy là một cô gái bình thường. Thực tế, bởi vì anh kêu khóc nhiều quá nên ta nghĩ cô ấy phải rất đẹp, cho nên đích thân ta đã trở nên quan tâm. Nhưng khi ta thấy cô ấy thì ta đơn giản cười to. Anh là thằng ngốc! Và ta có nhiều từ bi với cái ngốc của anh. Anh là thanh niên tốt; đừng làm phí hoài cuộc sống của mình."
Ông ta triệu tới mười hai người đàn bà trong hậu cung của mình và ông ta nói, "Anh chọn lấy một người bất kì." Họ đều đẹp nhất, quí giá nhất của vương quốc. Majnu nhìn và anh ta nói, "Chẳng cái gì sánh được với Laila." Và anh ta nói với nhà vua, "Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ thực sự muốn thấy Laila, bệ hạ sẽ cần đôi mắt của thần. Mắt của Majnu sẽ được cần tới. Không có cách nào để thấy Laila và cái đẹp của cô ấy ngoại trừ qua con mắt của Majnu."
Đệ tử là một Majnu. Người đó là người điên; người đó đã rơi vào tình yêu. Phật nói: Trái tim của người đó được thức tỉnh trong tin cậy... Hiện diện của Phật là hấp dẫn của ông ấy. Duyên dáng bao quanh Phật đã làm xúc động trái tim người đó. Đó không phải là logic của Phật, đó không phải là triết lí của Phật. Cho dù Phật vẫn còn im lặng thì điều đó cũng chẳng khác biệt gì nhiều; người đó sẽ bị thuyết phục như nhau. Cho dù Phật có bắt đầu tự mâu thuẫn thì điều đó cũng sẽ chẳng tạo ra khác biệt gì. Đó là lí do tại sao bạn thấy rằng tôi cứ mâu thuẫn hoài. Những người tới qua trí năng dần dần biến mất. Mâu thuẫn giúp tôi vứt cỏ dại khỏi khu vườn của tôi. Những người đã tới qua tình yêu thì không bận tâm. Họ nói, "Được đấy, thầy cứ tận hưởng việc tự mâu thuẫn đi, nhưng chúng tôi yêu thầy. Thầy không thể lừa chúng tôi được." Họ nói, "Thầy có thể cứ mâu thuẫn nhưng thầy không thể buộc chúng tôi chạy xa khỏi thầy được."
Những người tới qua đức tin, chẳng chóng thì chầy, sẽ phải ra đi - bởi vì chân lí mang tính nghịch lí. Chỉ lí thuyết mới không nghịch lí. Chân lí có tất cả mọi mâu thuẫn của cuộc sống trong nó. Chân lí rất phi logic, rất phi lí.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông minh.
Và thế rồi Phật nói: Nhưng điều này không phải là kết thúc. Khi trái tim ông tràn đầy tình yêu, và tràn đầy tin cậy và tin tưởng, đây không phải là kết thúc. Đây mới chỉ là bắt đầu. Bây giờ ông phải giúp cho thông minh của mình đi lên và chiếm quyền sở hữu mình. Tin cậy là cánh cửa: bạn phải đi vào qua nó, nhưng bạn không nên vẫn còn ở cửa. Bằng không, bạn chẳng bao giờ đi vào trong lâu đài này. Chung cuộc, ban phải đi tới kinh nghiệm riêng của mình. Tin tưởng là tốt, tin cậy vào vị phật là tốt, có tin cậy là tốt, nhưng điều đó không đủ - bởi vì tin cậy của bạn vào Phật vẫn không phải là kinh nghiệm của bạn. Điều đã xảy ra cho Phật phải xảy ra cho bạn nữa. Thế thì bước thứ hai xảy ra: thông minh riêng của bạn nảy sinh. Bây giờ nó không chỉ là tình yêu hướng tới Phật; bây giờ bằng kinh nghiệm riêng của mình bạn đã trở thành nhân chứng. Nó không phải là tin cậy vô căn cứ. Lúc ban đầu tin cậy là vô căn cứ, nhưng đến cuối nó trở thành tuyệt đối có căn cứ. Căn cứ này không do logic cung cấp, căn cứ này được kinh nghiệm của bạn cung cấp. Khi nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn, bạn không nói, "Tôi tin cậy vào Phật." Bạn biết nó là phải, nó là đúng.
Ai đó hỏi Shri Aurobindo, "Ông có tin vào Thượng đế không?" và ông ấy nói, "Không." Người này đâm ra phân vân. Anh ta đã tới từ Đức, anh ta là giáo sư. Và anh ta đã tới chỉ để nghe con người vĩ đại này. Anh ta đơn giản bị choáng rằng con người này nói, "Không." Và anh ta đã trong việc tìm kiếm Thượng đế. Anh ta nói, "Tôi có nghe đúng không, thưa ngài? Ngài nói không?" Aurobindo lặp lại, "Vâng," ông ấy nói, "tuyệt đối không - bởi vì không có vấn đề về đức tin. Tôi biết Thượng đế hiện hữu. Không có vấn đề về đức tin. Anh hỏi, ‘Ông có tin vào Thượng đế không?' Tôi không tin, tôi biết."
Đức tin là việc thay thế nghèo nàn cho hiểu biết.
Cho nên Phật nói: Thứ nhất ông tin cậy. Tin cậy đơn giản có nghĩa là ông đã tình cờ bắt gặp một người ở xa ông, xa khỏi ông. Ông đã tình cờ bắt gặp một người đã chỉ cho ông tương lai riêng của ông, định mệnh của ông. Cứ dường như một hạt mầm đã thành cây, và hạt mầm này đã trở nên nhận biết rằng cây là có thể có. Và cây này nói, "Có thời tôi cũng là hạt mầm hệt như bạn." Bây giờ tin cậy nảy sinh trong hạt mầm này. Nếu người đó chưa bao giờ thấy cây này, người đó sẽ chẳng bao giờ mơ về nó cả. Làm sao hạt mầm có thể mơ về cây được? Người đó chưa bao giờ thấy cái một. Đó là lí do tại sao được sinh vào thời của phật lại là phúc lành lớn lao - bởi vì có cây, và hạt mầm của bạn có thể bắt đầu mơ. Khi động chạm đầu tiên của cây đổ lên hạt mầm, người đó tin cậy. Tương lai riêng của người đó bây giờ trở nên đầy các khả năng. Nó sẽ không chỉ là việc lặp lại của quá khứ, nó sẽ là cái gì đó mới. Người đó xúc động. Xúc động đó là tin cậy. Người đó rùng mình tới tận gốc rễ. Bây giờ, lần đầu tiên, người đó biết có nghĩa; bây giờ, lần đầu tiên người đó biết có định mệnh. Cái gì đó đang sắp xảy ra: "Mình không phải là ngẫu nhiên. Mình đang mang thông điệp lớn lao. Nó phải được dịch ra, nó phải được giải mã. Mình phải trở thành cây và nở hoa, và lan toả hương thơm theo gió."
Nhìn thấy vị phật, bạn đã thấy phật tính riêng có thể có của mình. Đó chính là tin cậy là gì... nhưng nó vẫn chưa đủ. Thế rồi bạn phải làm việc cần mẫn để làm cho nó thành sự thực. Hạt mầm phải rơi vào đất, phải chết đi trong đất, được sinh ra như chồi. Và cả nghìn lẻ một khó khăn phải vượt qua: gió có đó, sấm chớp có đó, con vật có đó, và chồi mới lại rất mảnh mai, rất yếu ớt - với tiềm năng vô hạn trở thành mạnh mẽ, nhưng ngay bây giờ nó không mạnh. Nó sẽ cần sự giúp đỡ của ai đó; nó sẽ cần người làm vườn. Đó là nghĩa của thầy.
Khi bạn chọn thầy, bạn chọn người làm vườn. Và bạn nói, "Xin bảo vệ tôi cho tới khi tôi đủ mạnh mẽ để đi con đường riêng của mình." Nhưng tin cậy là cánh cửa.
Ngay cả nếu người đó có sự tin cậy, vận may hi hữu của người đó là đánh thức trái tim của thông minh.
Và điều cuối cùng:
Ngay cả nếu người đó đánh thức trái tim thông minh, vận may hi hữu của người đó là nhận ra trạng thái tâm linh ở trên kỉ luật và thành đạt.
Toàn thể mục đích của kỉ luật là để đi tới một điểm mà kỉ luật có thể bị vứt bỏ. Toàn thể mục đích của thực hành tôn giáo, của sadhana, là để đi tới một khoảnh khắc khi tất cả mọi sadhana có thể bị vứt bỏ và bạn có thể đơn giản tự phát. Thế thì bạn đã nở hoa.
Chẳng hạn, nếu bạn phải liên tục thiền, và một ngày nào đó bạn dừng việc thiền của mình và tâm trí nhảy lùi lại, thế thì đây không phải là trạng thái lớn lao gì. Một khoảnh khắc nên được ham muốn, được khao khát, khi bạn thậm chí có thể vứt bỏ việc thiền của mình. Nhưng chẳng cái gì khác cả; nó vẫn còn như cũ. Dù bạn có công phu thiền hay không, bạn vẫn còn mang tính thiền. Việc thiền phải trở thành phần cốt lõi nhất của bạn, phần của bản thể bạn, không phải là cái gì đó bị áp đặt từ bên ngoài. Không phải là bạn phải ép buộc bản thân mình là tốt; không phải là bạn phải kìm nén những cám dỗ xấu của mình, không. Bây giờ không có cám dỗ, không có ép buộc. Người ta đã siêu việt lên trên kỉ luật. Đây là điều Phật gọi là ‘Kỉ luật của Siêu việt'. Đây là vận may thứ bẩy, vận may cuối cùng, điều tối thượng.
Được sinh ra làm người mới chỉ là cái bắt đầu, và thế rồi bạn phải đi tới điểm mà tất cả mọi kỉ luật đều có thể bị vứt bỏ. Thế thì bạn đã trở thành một Thượng đế, thế thì bạn đã trở thành tự phát như tự nhiên, thế thì không có căng thẳng, thế thì bạn không có tính cách nào, thế thì bạn hồn nhiên như đứa trẻ. Nhận biết của bạn là hoàn hảo bây giờ, nhận biết của bạn là đủ bây giờ. Không còn cần cái gì khác nữa.
Phật nói:
Hỡi các con của phật! Các ông xa ta dù nhiều nghìn dặm, nhưng nếu các ông nhớ và nghĩ về lời giáo huấn của ta, các ông chắc chắn sẽ thu được quả chứng ngộ. Các ông có thể, dù đứng cạnh ta, luôn luôn thấy ta, nhưng nếu các ông không gìn giữ giáo huấn của ta, các ông sẽ không bao giờ đạt tới chứng ngộ.
Và Phật nói: Đừng bao giờ dừng lại ở bất kì đâu chừng nào ông còn chưa đạt tới trạng thái thứ bẩy - trạng thái của không kỉ luật mà có kỉ luật, trạng thái của vô nỗ lực, trạng thái của Đạo, pháp, trạng thái mà Kabir gọi là sahaj, tự phát. Nhưng bạn phải làm việc cần mẫn cho nó.
Cho nên Phật nói: Các ông có thể ở cùng ta, và nếu các ông không theo điều ta đang nói, nếu các ông không đem nó vào trái tim mình, vào trí thông minh của mình, vào bản thể mình, thế thì các ông vẫn cứ ở xa ta nghìn dặm. Nhưng các ông có thể ở xa ta nghìn dặm... nếu các ông tuân theo điều ta đã nói, các ông vẫn gần ta, và chứng ngộ của các ông là tuyệt đối chắc chắn, được đảm bảo, được hứa hẹn.
Ở gần vị phật... chỉ có một cách đi theo dấu chân của ông ấy. Ở gần vị phật nghĩa là: trở nên ngày một nhận biết hơn, trở nên ngày một tỉnh táo hơn. Đem chút ít phật tính tới cho bản thân bạn đi.
Mục đích là ở chỗ bạn cũng phải trở thành vị phật. Chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu đích xác điều là nghĩa và ý nghĩa và sự vĩ đại của việc là người đã thức tỉnh.
Tâm thức này tồn tại bên trong bạn ngay bây giờ, chính khoảnh khắc này. Bạn có thể không có khả năng thấy được nó. Tôi có thể thấy được nó. Nó có đó tựa tấm gương, và bạn bị đồng nhất với tất cả những cái phản xạ trong tấm gương. Vứt bỏ đồng nhất của bạn đi: bắt đầu thấy rằng bạn không là thân thể; bắt đầu thấy rằng bạn không là tâm trí; bắt đầu thấy rằng bạn không là xúc động, không là ý nghĩ; bắt đầu thấy rằng bạn không là vui thích và đau đớn; bắt đầu thấy không già không trẻ; bắt đầu thấy không thành công không thất bại. Bao giờ cũng nhớ rằng bạn là nhân chứng. Dần dần, phẩm chất tựa tấm gương này sẽ bùng nổ trong bản thể bạn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng bạn là tấm gương, thì bạn là tự do. Bạn là tự do. Đây chính là điều gọi là moksha hay đây tất cả chính là niết bàn.