Những vấn đề của thế giới quá to tát rộng lớn, quá phức tạp khó khăn, mà muốn hiểu và giải quyết những vấn đề ấy, người ta cần phải đi đến những vấn đề ấy một cách giản dị và trực tiếp; và sự giản dị, sự trực tiếp không phải tùy thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài, cũng không phải tùy thuộc vào những thành kiến và trạng huống đặc biệt nào đó. Như tôi đã trình bày, không thể tìm sự giải quyết vấn đề trong những hội nghị, những chương trình kế hoạch hay trong sự truất phế những người lãnh đạo cũ để thay bằng những vị lãnh đạo mới, vân vân.
Nhất định sự giải quyết vấn đề chỉ nằm trong chính người tạo ra vấn đề, người tạo ra dối trá ác tâm, hận thù và ngộ nhận to tát giữa những con người. Người khai sinh ra điều gian manh, khai sinh ra những vấn đề chính là cá thể, chính các bạn và tôi, chứ không phải thế gian, như chúng ta thường tưởng thế. Thế gian, thế giới này là sự giao tương giữa người này với người khác. Thế gian không phải là một thực thể ly cách các bạn và tôi; thế gian, xã hội chính là liên giao mà chúng ta đã thiết lập hay tìm cách thiết lập để cảm thông nhau.
Thế thì các bạn và tôi là vấn đề, chứ không phải thế giới, không có vấn đề thế giới tách biệt ra ngoài chúng ta, mà thế giới chỉ là sự phóng rọi ra bên ngoài những gì thầm kín bên trong tâm hồn chúng ta; do đó, muốn tìm hiểu thế giới, chúng ta phải tìm chính chúng ta. Thế giới không phải tách lìa xa lạ với chúng ta; chúng ta chính là thế giới, và những vấn đề của chúng ta chính là những vấn đề của thế giới.
Có nên lặp lại rằng chúng ta quá biếng nhác trong tâm tưởng, biếng nhác đến nỗi chúng ta nghĩ rằng những vấn đề thế giới không phải là việc của chúng ta và cho rằng chỉ Liên Hiệp Quốc mới lo việc giải quyết những vấn đề ấy. Hoặc những vấn đề ấy chỉ có thể giải quyết như thay đổi những vị lãnh tụ cũ bằng những lãnh tụ mới.
Chỉ có những đầu óc khờ dại nông cạn mới nghĩ như vậy, vì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm về thảm trạng đau đớn hãi hùng hiện nay, phải chịu trách nhiệm về sự hỗn loạn hiện tại ở thế giới, trận thế chiến luôn luôn đe dọa sắp nổ. Muốn chuyển hóa thế giới, chúng ta phải bắt đầu chuyển hóa bản thể chúng ta; khi bắt đầu chuyển hóa mình, điều quan trọng là ý định chủ hướng, ý định chủ hướng phải là tự tri, tự giác, tự hiểu biết mình và không để người khác tự chuyển hóa họ hoặc mang đến một sự đổi thay cải cách bằng cách mạng theo tả phái hoặc hữu phái.
Một điều quan trọng thế giới là hiểu rằng đó chính là trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm của các bạn và trách nhiệm của tôi. Bởi vì dù thế giới ta đang sống có nhỏ bé đến đâu đi nữa, mà nếu chúng ta có thể tự chuyển hóa mình, tự tạo tác ra một quan điểm khác biệt triệt để trong đời sống thường nhật thì lúc ấy chúng ta sẽ ảnh hưởng điều phục cả thế giới lớn rộng, toàn thể thế giới này, trọn vẹn tương giao mở rộng với những người khác.
Như tôi đã nói nhiều lần, chúng ta đang tìm hiểu tiến trình tri kiến bản thân, một tiến trình hỗ tương, chứ không phải là một tiến trình đơn độc cô lập. Tiến trình tự tri, tự kiến, tự hiểu mình không phải bắt đầu từ việc chối bỏ thế gian, từ bỏ cuộc đời để rút lui về ẩn náu trong sự cô lập nào đó; không, không phải thế, vì các bạn không thể nào sống trong sự cô lập ấy.
Hiện tính là tương quan; không có gì là một cuộc hiện sinh cô lập. Chính vì đánh mất tương giao chính đáng cho nên mới xảy ra những sự xung đột va chạm, nạn khốn cùng kiệt quệ và sự tranh chấp đấu tố; dù thế giới của chúng ta có nhỏ bé thế nào đi nữa tương giao của chúng ta trong thế giới nhỏ hẹp ấy thì việc ấy không khác gì một ngọn sóng dâng tràn tiếp nối rộng lớn ra bên ngoài mãi mãi không bao giờ dứt.
Hiểu được như vậy, tôi nghĩ rằng đó mới là điều quan trọng, chúng ta phải hiểu rằng thế giới là mối tương giao của chúng ta, dù là tương giao nhỏ hẹp đi nữa, đó cũng vẫn là tương giao; mà nếu chúng ta có thể mang đến sự chuyển hóa trong sự tương giao ấy, một sự hóa thân biến chuyển toàn triệt, chứ không phải hời hợt, nếu chúng ta có thể làm được như thế thì chúng ta đã bắt đầu tích cực chuyển hóa cả thế giới.
Cuộc cách mạng thực sự không thể nào được thiết lập trên bất cứ một mẫu mực đặc biệt nào, dù là mẫu mực hữu phái hoặc tả phái. Cuộc cách mạng thực sự phải là cuộc cách mạng của những giá trị, thay đổi toàn triệt những giá trị cảm thức thành ra những giá trị thực sự, những giá trị không xuất phát từ cảm quan hay không bị qui định, tạo tác do những ảnh hưởng hoàn cảnh chung quanh.
Muốn tìm ra những giá trị thực sự để đem đến một cuộc cách mạng toàn triệt, một sự chuyển hóa triệt để hoặc một sự hồi sinh trọn vẹn, con người phải cần tự hiểu mình. Tự tri là bước đầu của đạo lý và đó mới là bước đầu của sự chuyển hóa hoặc phục sinh.
Muốn tự hiểu mình, chúng ta cần phải có ý định chủ hướng là muốn hiểu – đó là sự khó khăn đầu tiên. Mặc dù hầu hết chúng ta đều bất mãn, hầu hết chúng ta đều muốn chuyển biến, chuyển hóa lập tức, nhưng sự bất mãn của chúng ta chỉ đưa đến việc tìm tới một kết quả nào đó; vì bất mãn, chúng ta đã đi tìm một việc làm khác hay chỉ thụ động ngã quỵ với hoàn cảnh.
Sự bất mãn, thay vì thổi lửa trong lòng ta, xui khiến ta đánh dấu hỏi trước đời sống, tra vấn trọn vẹn tiến trình của đời sống, thay vì thế, bất mãn đã uốn nắn qui tụ lại trong hướng đi khuôn khổ cạn hẹp; do đó, chúng ta trở thành tầm thường hời hợt, đánh mất nguyên động lực, đánh mất lửa tâm tư, sự mãnh liệt nội tâm để khám phá ý nghĩa trọn vẹn của đời sống con người.
Vì lý do ấy, điều quan trọng nhất đối với chúng ta là phải khám phá ra mọi sự bằng chính bản thân chúng ta, bởi vì sự tự tri, tự giác, không thể nào thành tựu được qua trung gian của một người khác, chúng ta không thể tìm được tự tri trong bất cứ một quyển sách nào. Chúng ta phải khám phá, mà muốn khám phá thì phải có ý định khám phá, tìm kiếm, khảo sát. Khi nào mà ý định chủ hướng muốn khám phá, tìm hiểu, khảo sát sâu xa hãy còn quá yếu ớt hoặc không xuất hiện trong tâm trí mình thì việc tìm hiểu mình chẳng có ý nghĩa gì cả, vì chúng ta chỉ nói suông hoặc chỉ có ý muốn nhất thời thôi.
Thế thì mọi sự chuyển hóa thế giới chỉ có thể thực hiện được bằng sự chuyển hóa bản thân, chuyển hóa ngay nơi tâm tư của mình, vì bản ngã là sản phẩm và là thành phần của toàn thể tiến trình của đời sống con người. Muốn tự chuyển hóa, chúng ta phải cần tự hiểu mình; không tự hiểu mình, không hiểu được bản chất mình thì tư duy chính xác đã mất nền tảng; không tự hiểu mình thì sự chuyển hóa tâm thức không thể nào thể hiện được: mình phải hiểu mình là gì, không phải hiểu như muốn mình phải là gì, vì nếu muốn như thế thì chỉ là một lý tưởng, nghĩa là huyền ảo không thực; chỉ có những gì là hiện thể, đang là thì mới có thể chuyển hóa được, chứ không phải những gì mình muốn nó biến thể theo ý muốn của mình.
Muốn hiểu rõ mình là thế nào, đúng theo bản chất thông thường trung trực của mình thì phải cần có một trí óc linh hoạt nhanh nhẹn, sống động phi thường, bởi vì những gì đang là hiện thể thì thường xuyên biến dạng hóa thân từng giây phút, luôn luôn thay đổi, mà muốn dõi theo sự thay đổi linh động ấy một cách nhanh nhẹn, nhất định tâm trí mình không bị ràng buộc theo một tín điều hay một tín ngưỡng đặc biệt nào, trong bất cứ khuôn mẫu hành động đặc thù nào.
Nếu các bạn muốn theo bất cứ sự vật gì mà phải bị vướng buộc trói buộc thì không thể nào thành tựu được. Muốn hiểu thực chất, thực tính của mình, chúng ta phải ý thức, trí óc phải được tự do, trí óc phải nhanh nhẹn, thức thời linh động, chỉ có trí óc như vậy mới được tự do, không bị ràng buộc trong tất cả tín ngưỡng, trong tất cả hệ trình ý niệm, bởi vì những tín ngưỡng và những lý tưởng chỉ cho các bạn một sắc thái nào đó và làm phân tán bại hoại trực kiến chân chính.
Nếu các bạn muốn biết bản chất trung trực của các bạn, các bạn không thể nào tưởng tượng hình dung hay đặt tín ngưỡng vào một sự thể nào đó mà không phải là bản thể của các bạn. Nếu tôi tham lam, đố kỵ, tàn nhẫn bạo động, phũ phàng mà lại chỉ muốn vươn tới lý tưởng bất bạo động, ly dục: việc vươn tới lý tưởng ấy chẳng có một mảy may giá trị nào cả.
Nhưng hiểu biết rằng mình là kẻ tham lam, đố kỵ, hoặc bạo động, muốn biết và hiểu như vậy đòi hỏi chúng ta phải có một sự trực nhận bén nhạy, phải thế không? Đòi hỏi chúng ta phải thành thực, chính trực, sáng sủa minh bạch trong tư tưởng, trái lại việc chạy đuổi theo một lý tưởng nào đó để trốn sự thực thì chỉ là một việc thoát ly thực tại, chạy trốn thực tại, việc ấy ngăn chặn các bạn và không để các bạn khám phá và hành động trực tiếp để chuyển hóa bản chất các bạn.
Hiểu bản chất của mình, dù bản chất ấy là gì đi nữa, dù xấu hay đẹp, dù hung bạo hay tàn nhẫn, hiểu bản chất mình một cách ngay thẳng là sự bắt đầu của nhân đức. Nhân đức rất cần thiết cho chúng ta vì nó mang đến tự do. Chỉ trong nhân đức các bạn mới có thể khám phá rằng các bạn đang sống, chứ không phải trong việc tôi luyện một đức hạnh nào đó, việc tôi luyện ấy chỉ tạo ra sự kính trọng, chứ không tạo ra giao cảm và tự do.
Một người có nhân đức khác hẳn một người muốn trở nên nhân đức. Nhân đức chỉ xuất hiện khi chúng ta hiểu cái đang là, hiện thể, thực thể, trái lại muốn trở thành nhân đức chỉ là triển hạn trì hoãn che đậy khuất lấp cái đang là hiện thể, thực thể mà mình muốn nó chuyển hóa theo lòng tham dục của mình.
Vì thế khi muốn trở thành kẻ nhân đức, các bạn đã tránh hành động trực tiếp để chuyển hóa thực tại, hiện thể, cái đang là. Tiến trình trốn lánh thực tại, trốn lánh cái đang là qua sự khuôn đúc tôi luyện lý tưởng thì được mọi người coi như là nhân đức; nhưng khi các bạn khảo sát một cách kỹ lưỡng hơn, một cách trực tiếp hơn, các bạn sẽ thấy rằng đó chẳng phải nhân đức gì cả.
Đó chỉ là sự triển hạn lần lữa không chịu đối mặt với hiện thể, chạm mặt với cái đang là. Nhân đức không phải là trở thành cái không là bây giờ, trở thành một cái gì nghịch lại hiện thể, bản chất trung thực của mình; nhân đức là hiểu cái đang là, lĩnh hội thực tại, viên thông với thực thể, và nhờ đó được tự do giải thoát, không còn bị ràng buộc trong hiện tại, trói buộc trong hiện thể. Nhân đức rất cần thiết chính yếu cho một xã hội đang bị tàn rữa nhanh chóng.
Muốn tạo ra một thế giới mới, một cơ cấu mới khác hẳn với nề nếp cũ, chúng ta phải có tự do thoải mái để khai phá, khám phá; và muốn được tự do thì phải có nhân đức, vì không có nhân đức thì không thể nào có tự do được. Có thể nào một người thất đức muốn trở thành nhân đức mà biết được nhân đức? Người thất đức thì không thể nào được tự do, và không thể nào hắn có thể khám phá ra thực tại. Thực tại chỉ có thể tìm thấy trong việc lĩnh hội, tiếp nhận, giao cảm, hiểu được cái đang là; muốn hiểu được cái đang là thì phải có tự do, tự do và thoát khỏi nỗi niềm sợ hãi thực tại, sợ hãi cái đang là, sợ hãi những gì đang xảy ra trong hiện tại.
Muốn hiểu được tiến trình ấy, chúng ta cần phải có ý định chủ tâm, muốn hiểu, muốn biết cái đang là, theo đuổi mỗi một tư tưởng, mỗi một cảm giác và mỗi một hành động; hiểu được cái đang là thì thực sự vô cùng khó khăn, bởi vì cái đang là thì không bao giờ đứng yên một chỗ, không bao giờ tĩnh chỉ, không bao giờ tĩnh chết, cứng đọng, cái đang là thì luôn luôn di chuyển, vận hành, chuyển động thường xuyên.
Cái đang là là chính các bạn, bản chất của các bạn, hiện thể của các bạn, đó là bản tính thực sự của các bạn, chứ không phải lý tưởng, hình ảnh xa vời mà các bạn muốn trở nên; nó không phải là lý tưởng bởi vì tất cả lý tưởng đều huyễn hoặc, không có thực, nhưng những gì đang xảy ra hiện nay, những gì đang là thì chính là những gì các bạn đang làm, đang nghĩ và đang cảm thấy từ giây phút này đến giây phút khác. Cái đang là là cái đang xảy ra, đang hiện thực, và muốn hiểu hiện thực thì cần phải có một trí óc sáng suốt, ý thức bốc cháy, nhanh nhẹn, tỉnh thức thường xuyên.
Nhưng nếu khi chúng ta bắt đầu phê phán biến thể cái đang là, nếu chúng ta bắt đầu đổ lỗi và chống chế nó, bấy giờ chúng ta sẽ không còn hiểu được sự vận hành của nó nữa. Nếu tôi muốn thông cảm một người nào đó, tôi không thể nào phán xử kết án hắn được: tôi phải quan sát, khảo sát hắn. Tôi phải thương yêu sự thể mà tôi đang khảo sát nghiên cứu.
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thông cảm một đứa trẻ, các bạn phải thương yêu và không phán xử khiển trách nó. Các bạn phải chơi đùa với đứa trẻ ấy, ngắm nhìn những cử động, những nét độc đáo của tính nết, những lề lối cư xử của đứa bé; nhưng ngược lại, nếu các bạn chỉ xử phạt khiển trách, cưỡng chống hoặc qui trách đứa trẻ thì không thể nào nói là các bạn đã chịu tìm hiểu cảm thông đứa bé nhỏ.
Cũng thế, mỗi khi muốn tìm hiểu lý giải tất cả những gì đang là, đang xảy ra, đang hiện thể, mình phải xem xét, chú ý, chú tâm, chiêm nghiệm tất cả tư tưởng, ý nghĩ, cảm giác và hành động của mình từ lúc này đến lúc khác, từng khoảnh khắc từng giây phút. Đó là hiện thực, thực thể, hiện thể. Bất cứ hành động nào khác, bất cứ lý tưởng hay bất cứ sự vận động ý thức hệ nào khác, cũng đều không phải là hiện thực, thực tế; đó chẳng qua chỉ là hoài vọng nhất thời, một ý muốn thèm khát huyễn hoặc, muốn trở nên một cái gì khác cái đang là, cái đang xảy ra, đang hiện thực.
Muốn hiểu được cái đang là, chúng ta cần phải có một tâm trạng thoải mái, không vướng bận với sự đồng hóa hay sự phán xử khiển trách, tâm trí mình phải hoạt bát, mẫn tiệp, lanh lợi, nhưng dù nhanh nhẹn như thế, vẫn thụ động, cởi mở đón nhận một cách vô vi tiêu cực. Chúng ta chỉ có thể đạt tới trạng thái ấy khi chúng ta thực sự khao khát muốn tìm hiểu một sự thể nào đó.; khi chúng ta thực sự chuyên tâm, chuyên chú một cách hứng khởi mãnh liệt thì nhất định trạng thái tâm tư ấy xuất hiện ngay lập tức.
Lúc mình thực sự say sưa tìm hiểu cái đang là, trạng thái thực của tâm hồn hiển nhiên mình không cần phải cưỡng chế, bức bách, khắc phục hoặc kìm chế nó; ngược lại, mình phải linh hoạt, thức thời, mẫn tiệp một cách thụ động vô vi tiêu cực. Trạng thái ý thức linh hoạt ấy chỉ xuất hiện khi mình nhanh nhẹn, lanh lợi, say sưa hứng thú trong ý định chủ tâm tìm hiểu, thể nhận, lý giải sự thể.
Sự tự hiểu mình, sự tự tri căn bản ấy không thể nào thành tựu được nếu mình chỉ trông cậy vào kiến thức, kiến giải, hoặc vào sự chứa chất, tích lũy của những kinh nghiệm, đó chỉ là việc tôi luyện trí nhớ thôi. Mình chỉ có thể hiểu mình trong mỗi một khoảnh khắc, từ giây phút này đến giây phút khác. Nếu chúng ta chỉ chồng chất tích lũy kiến thức về bản ngã, chính kiến thức ấy sẽ ngăn chặn lại sự giao cảm thâm trầm, sâu sắc; bởi vì kiến thức và kinh nghiệm chứa chất ấy trở thành trung tâm để cho tư tưởng tập trung qui hướng mà phát hiện.
Thế giới không khác chúng ta và không khác những hoạt động của chúng ta, vì chúng ta là thế nào thì chúng ta tạo ra những vấn đề thế giới như thế ấy; nỗi khó khăn, đối với phần đông mỗi người, là không hiểu mình một cách trực tiếp, thay vì thế, mình lại tìm kiếm một hệ thống ý thức, một phương pháp, một lề lối hành tác để giải quyết bao nhiêu vấn đề nhân loại.
Thế thì có chăng một phương tiện, một hệ thống để mà mình có thể tự hiểu mình?
Bất cứ một người khéo léo, bất cứ một triết gia nào cũng có thể sáng lập một hệ thống, một phương pháp; nhưng điều quá rõ ràng ai cũng thấy, việc chạy theo một hệ thống nào đó rốt cuộc cũng lại chỉ đạt được kết quả do chính hệ thống ấy tạo ra, phải thế chăng? Nếu tôi theo một phương pháp đặc biệt nào đó để tìm hiểu mình, bấy giờ tôi sẽ đạt được kết quả mà chính phương pháp, hệ thống ấy đã khuôn định, nhưng hiển nhiên kết quả ấy chẳng phải là sự tự hiểu mình, tự tri, tự ngộ.
Nói cho rõ ràng, khi khuôn rập theo một phương pháp, một hệ thống nào đó, một phương tiện nào đó để mà tìm hiểu mình thì tôi đã hun đúc uốn nắn tư tưởng tôi, hành động tôi, đúng theo một mẫu mực nào đó; nhưng việc tự tri, tự tìm hiểu mình, nhất định không thể nào là việc khuôn đúc ăn rập theo một mẫu mực nào đó.
Vậy thì chẳng có một phương pháp nào để tự tìm hiểu mình được. Đi tìm kiếm một phương pháp nào đó vẫn chỉ luôn luôn ngụ ý tiềm tàng lòng khát vọng đạt tới một kết quả nào đó hầu hết chúng ta đều muốn như vậy. Chúng ta tuân theo quyền thế, quyền uy, nếu không là quyền thế uy lực của một người nào đó thì lại là uy thế của một hệ thống ý niệm nào đó, một ý thức hệ nào đó: bởi vì chúng ta muốn đạt đến một kết quả nào đó khả dĩ thỏa mãn được lòng mình, khả dĩ mang đến sự an ninh bình an tâm hồn.
Thực ra, chúng ta không hề muốn tự hiểu mình, hiểu những rung động, những phản ứng nội tâm, toàn thể tiến trình tư tưởng chúng ta, ý thức cũng như vô thức; thay vì thế, chúng ta lại đuổi theo một hệ thống ý niệm, một hệ thống nào đó có thể bảo đảm một kết quả nào đó cho chúng ta.
Nhưng sự đuổi theo một hệ thống vẫn luôn luôn là hậu quả của lòng khát vọng muốn được an ninh, an bình, muốn được cố định dứt khoát; hiển nhiên, kết quả không phải là sự tìm hiểu mình. Khi chúng ta tuân theo một phương pháp, phương sách, chúng ta cần phải nhờ vả quyền uy thế lực (uy thế của bậc tôn sư, sư phụ, đấng cứu thế, bậc đại sư) để bảo đảm hứa hẹn cho chúng ta tất cả những gì chúng ta mong muốn; nhất định đây không thể nào là con đường đưa dẫn tới tự giác được.
Phải chăng quyền uy thế lực ngăn chặn tất cả tự giác, tự tri? Ẩn núp dưới chiêu bài quyền uy thế lực, nương náu dưới trướng một kẻ dẫn đạo, các bạn có thể tạm thời có cảm giác rằng mình được an ninh, an lành tinh thần, nhưng điều đó không thể nào đưa đến sự lĩnh hội trọn vẹn tiến trình nội tâm của bản thân. Vì thế, uy lực, trong tự thể của nó, chặn đứng tất cả ý thức trọn vẹn về bản thân và rút lại phá hủy tự do; chúng ta chỉ có thể tìm được tinh thần sáng tạo, óc sáng tác, trong tự do mà thôi. Chỉ khi nào mình hiểu được thì mới có thể sáng tác, sáng tạo.
Hầu hết chúng ta không bao giờ có được tinh thần sáng tạo trong đời sống; chúng ta chỉ là những máy lặp đi lặp lại một cách vô ý thức, những đĩa hát chơi hoài, trổi mãi những điệu nhạc buồn tẻ của kinh nghiệm, lặp đi lặp lại một số kết luận nào đó hoặc một số hồi tưởng nào đó của chính mình hay của kẻ khác. Sự lặp đi lặp lại ấy không thể là hiện thể sáng tạo, đó chỉ là những gì chúng ta mong muốn thôi.
Bởi vì chúng ta mong muốn được an toàn trong nội tâm, chúng ta cứ mải miết đi tìm những phương pháp, phương tiện, để được an bình, an ninh, an toàn, thế rồi chúng ta đã tạo ra quyền thế uy lực, sùng bái thờ lạy một kẻ nào đó, việc ấy đã phá hủy sự giao cảm lĩnh hội, phá hủy sự thanh bình trầm lặng tự nhiên của tâm thức, chỉ có sự thanh bình trầm lặng ấy mới có thể đưa chúng ta đến tâm thái sáng tạo trước đời sống.
Thực quá rõ ràng, nỗi khó khăn của hầu hết chúng ta là đã đánh mất cảm thức sáng tạo. Có được tinh thần sáng tạo sáng tác không có nghĩa là chúng ta phải vẽ tranh hay làm thơ và trở nên nổi tiếng nổi danh nhờ những tác phẩm của mình. Đó không có gì là sáng tạo cả: thực ra đó chỉ là khả năng diễn đạt một ý tưởng nào đó mà quần chúng ca ngợi hay bỏ quên, hững hờ không biết đến. Chúng ta đừng bao giờ nhầm lẫn khả năng và tinh thần sáng tạo.
Khả năng, tài năng không phải là tinh thần sáng tạo. Óc sáng tác, tinh thần sáng tạo là một trạng thái hoàn toàn khác hẳn, phải thế không? Đó là một trạng thái mà bản ngã vắng mặt, mà tâm trí không còn là nơi tập trung những kinh nghiệm của chúng ta, những tham vọng, những sự tra tìm và những lòng khát vọng của chúng ta. Tinh thần sáng tạo không phải là một trạng thái liên tục, nó mới lạ từ giây phút này đến giây phút khác, nó di động biến chuyển, trong sự vận hành ấy không thể tìm thấy cái ‘tôi’, bản ngã, và tư tưởng không bị qui hướng tập trung về một cứ điểm kinh nghiệm đặc biệt nào, về bất cứ tham vọng, thành tựu, mục đích và động lực nào cả.
Chỉ khi nào bản ngã không có ở đó thì mới phát hiện tinh thần sáng tạo, chỉ có tình trạng ấy mới chứa đựng thực tại, thực thể sáng tạo vạn hữu. Nhưng chúng ta không thể nào ý niệm được, hội ý, hay tưởng tượng hình dung trạng thái ấy, chúng ta không thể đặt phương trình hoặc ghi chép, cóp chép nó, chúng ta không thể nào đạt tới trạng thái ấy qua trung gian của một hệ thống, qua trung gian của bất cứ một triết lý nào, qua trung gian của bất cứ kỷ luật nào; trái lại, trạng thái ấy chỉ có thể xuất hiện qua sự lĩnh hội toàn thể tiến trình bản thân.
Tự tri bản thân không thể là một kết quả, một sự hội thành, tập đại thành; tự tri là thấy mình, nhìn thấy mình từ giây phút này đến giây phút khác trong lăng kính của tương giao, tương hệ của mình đối với tài sản, đối với những sự vật đối với con người và đối với những ý tưởng, nhưng chúng ta cảm thấy quá khó khăn trong việc giữ tâm trí mình được linh hoạt nhanh nhẹn tỉnh táo để thức tỉnh, để ý thức sáng suốt, và chúng ta lại muốn làm tê liệt nhàm chán tâm trí chúng ta bằng cách chạy theo một phương pháp nào đó, bằng cách chấp nhận những quyền uy thế lực, những mê tín dị đoan và những lý thuyết khả dĩ làm thỏa mãn tâm hồn chúng ta; vì thế tâm trí chúng ta đã trở nên khắc khoải, mệt nhọc, chán chường, thờ ơ, lãnh đạm, vô tri giác.
Tâm trí như thế thì không thể nào nói đến trạng thái sáng tạo. Tâm thái sáng tạo chỉ đến với ta khi nào bản ngã, nghĩa là tiến trình tri nhận và tích lũy không còn liên tục nữa; bởi vì, tựu chung, ý thức chính là bản ngã, là trung tâm của thị nhận, và thị nhận chỉ là tiến trình của sự tích lũy kinh nghiệm. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ hãi khi biết mình không là gì cả, bởi vì chúng ta đều muốn trở nên cái gì đó. Con người nhỏ nhoi thì muốn trở thành người to lớn, người thất đức thì muốn trở thành kẻ nhân đức, kẻ ốm yếu ngu muội thèm khát quyền thế, địa vị và uy lực. Đó là hành động liên tục của tâm trí. Kẻ nào có tâm trí như thế thì không thể nào trầm lặng được và không thể nào hiểu được tâm thức sáng tạo.
Muốn chuyển hóa thế giới chung quanh ta, chuyển hóa sự khốn khổ chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải chuyển hóa chính bản thân mình. Cuộc cách mạng phải bắt đầu được nhóm dậy trong chính tâm tư mình, chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín ngưỡng nào hay ý thức hệ nào, bởi vì cách mạng xây dựng trên một ý tưởng, hay khuôn đúc theo một mẫu mực đặc biệt nào đó thì chẳng có gì là cách mạng cả. Muốn đem lại một cuộc cách mạng từ căn rễ trong tâm hồn mình, mình phải hiểu được toàn thể tiến trình tư tưởng và cảm giác mình trong sự giao du hỗ tương.
Đó mới là sự giải quyết duy nhất cho tất cả vấn nạn, tất cả vấn đề; không còn phải tuân theo những kỷ luật nào nữa, không còn tín ngưỡng nào, không còn ý thức hệ nào, không còn tôn sư thầy dạy nào nữa. Khi nào chúng ta có thể tự hiểu mình đúng như mình đang là từ giây phút này đến giây phút khác mà không phải vướng trong tiến trình tích lũy, chỉ lúc ấy chúng ta mới thấy được sự trầm lặng thư thái hiện đến, sự trầm lặng ấy không phải là sản phẩm của tâm trí, sự trầm lặng thanh bình an tĩnh không phải do tưởng tượng, cũng không phải do nỗ lực tôi luyện. Chỉ khi nào mình đạt được tâm thái tĩnh lặng ấy thì tâm thức sáng tạo mới được bừng dậy.
➡️Chương 5