Người chủ không bao giờ tự hào.
Người đó không nói hạ thấp người khác.
Không có cái gì, người đó không bỏ lỡ cái gì.
Người đó không sợ.
Người đó không run rẩy.
Không cái gì trói buộc người đó.
Người đó là tự do vô hạn.
Cho nên chặt phăng qua dây lụa và dây da và dây thừng.
Làm lỏng việc trói chặt.
Mở các cánh cửa của giấc ngủ và thức dậy.
Người chủ chịu đựng sỉ nhục và đối xử tệ không phản ứng.
Với tâm linh của người đó là quân đội.
Người đó không bao giờ giận.
Người đó giữ lời hứa.
Người đó không bao giờ lạc đường, người đó quyết tâm.
Thân thể này là thân thể cuối cùng của ta, người đó nói!
Như nước trên cánh bông sen hay hạt mù tạc trên đầu kim,
Người đó không níu bám.
Vì người đó đã đạt tới chỗ cuối của buồn khổ và đã hạ bỏ gánh nặng của mình.
Con người được sinh ra chỉ như hạt mầm, không phải như bông hoa. Việc nở hoa phải được đạt tới; người ta phải không nên coi điều đó là tự nhiên có rồi. Bản thân sinh chỉ là cơ hội cho cuộc sống, nó không phải là bản thân cuộc sống. Bạn có thể vẫn bỏ lỡ cuộc sống - và hàng triệu người bỏ lỡ nó bởi lẽ đơn giản là họ nghĩ rằng được sinh ra là đủ để có sống động. Nó là không đủ đâu. Nó là cần thiết - không có nó sẽ không có cuộc sống - nhưng nó không đồng nghĩa với cuộc sống. Bạn phải là người được sinh ra hai lần.
Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được sinh ra lần nữa ông sẽ không vào trong vương quốc Thượng đế của ta.
Một loại tái sinh là cần thiết. Sinh thông thường là sinh của cơ chế thân tâm, nhưng tâm linh của bạn chỉ là tiềm năng - nó phải được hiện thực hoá. Abraham Maslow đã gọi quá trình này là tự hiện thực hoá. Phật Gautam gọi cùng quá trình này là "hiện thực hoá vô ngã." Abraham Maslow không có ý tưởng nào về điều tối thượng; ông ấy nghĩ về nó, nghiên cứu về nó. Ông ấy loạng choạng va vào chân lí nào đó, nhưng ông ấy không biết cách diễn đạt nó. Ông ấy đã không tự mình kinh nghiệm nó; đấy chỉ là hiểu biết trí tuệ của ông ấy, do đó ông ấy gọi nó là "hiện thực hoá cái ngã."
Nhưng trong việc nở hoa tối thượng đó, điều đầu biến mất là cái ngã. Thực tế, cái ngã là rào chắn duy nhất cho việc nở hoa đó. Cái ngã là cản trở, không phải là giúp đỡ. Cái ngã bao quanh bạn như bức tường; nó không phải là cây cầu.
Khi bạn thực sự được sinh ra, được sinh ra cho cuộc sống hay cho Thượng đế - với tôi cả hai đều đồng nghĩa - bạn không còn nữa, không còn như bạn hiểu bản thân mình đang đấy. Trống rỗng thuần khiết trùm khắp nơi, hư không hoàn toàn trùm khắp nơi, im lặng vô âm thanh. Âm nhạc có đó chắc chắn, nhưng không có âm thanh nào. Thiền nhân gọi nó là tiếng vỗ tay của một bàn tay. Cái vô ngã đó là khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn. Khi bạn không có đó, bạn hiện hữu, và bạn hiện hữu lần đầu tiên.
Nếu Abraham Maslow mà kinh nghiệm trạng thái tối thượng của việc nở hoa ông ấy sẽ không bao giờ gọi nó là hiện thực hoá cái ngã; ông ấy sẽ gọi nó là "hiện thực hoá vô ngã." Bạn được sinh ra như cái ngã, như bản ngã. Đây là hạt mầm và hạt mầm này phải biến mất trước khi chồi có thể bắt đầu mọc lên. Hạt mầm phải chết đi trong đất; thế và chỉ thế thì cuộc sống được ẩn bên trong hạt mầm mới bắt đầu biểu lộ bản thân nó.
Đó là phép màu! Bạn mù, đó là lí do tại sao bạn không thể thấy được. Biết bao nhiêu phép màu đang xảy ra khắp xung quanh bạn. Khi hạt mầm trở thành chồi, phép màu lớn đang xảy ra. Nếu bạn chặt hạt mầm ra bạn sẽ không thấy lá nào cả, bạn sẽ không thấy hoa nào cả, bạn sẽ không thấy cây nào cả, bạn sẽ không thấy gì cả - chỉ trống rỗng. Qua phân tích hạt mầm bạn sẽ không đạt tới kết luận nào. Nhưng nếu bạn để hạt mầm này rơi vào trong đất tốt, nếu bạn cho phép hạt mầm này chết đi và biến mất, từ cái không đó, cái gì đó đẹp mênh mông nảy sinh ra, cái gì đó không thể được nay đã xảy ra. Lá tới, cành tới, cây lớn mọc lên. Hạt mầm nhỏ bé như thế chứa cái cây lớn như thế! Bây giờ hàng trăm người có thể ngồi dưới bóng của nó, hàng trăm chim chóc có thể làm tổ, có thể tới nghỉ ngơi mọi đêm trong chỗ trú ẩn của chúng, và hàng nghìn hoa sẽ nở ra.
Một hạt mầm có khả năng làm cho cả trái đất xanh tươi. Nó có tiềm năng nhiều thế - tiềm năng vô hạn, bởi vì từ một hạt mầm đó cả triệu hạt mầm sẽ nảy sinh, và vân vân và vân vân. Nếu bạn có một hạt mầm cả trái đất có thể là vườn. Sao chỉ toàn trái đất thôi? - toàn thể vũ trụ có thể là vườn chứ! Tiềm năng là vô hạn; bạn chỉ phải tìm ra cơ hội đúng cho diễn đạt của nó, cho biểu lộ của nó, cho hiện thực hoá của nó.
Phật nói:
Con người không được sinh ra để là chủ.
Mọi người được sinh ra như một nô lệ. Biết điều đó là đau đớn; chúng ta muốn được bảo cho rằng chúng ta được sinh là là người chủ. Chúng ta tin rằng chúng ta là người chủ - không ai nghi ngờ điều đó. Những người bắt đầu hoài nghi quyền làm chủ của mình là những người duy nhất có khả năng một ngày nào đó trở thành người chủ. Bạn hoài nghi mọi thứ, nhưng bạn chưa bao giờ hoài nghi quyền làm chủ trên bản thân mình, và đó là điều đáng hoài nghi nhất, điều đáng nghi vấn nhất. Bạn đã có loại quyền làm chủ nào? Bạn là nô lệ, hoàn toàn là kẻ nô lệ của bản năng sinh học, của dục, của giận, của tham, của tham vọng. Bạn bốc mùi của tất cả những thứ này, bạn đầy tất cả những thứ này. Và dầu vậy bạn vẫn cứ tin sâu bên dưới ở đâu đó rằng bạn là người chủ.
Và thay vì nỗ lực phá huỷ sự nô lệ này bạn bắt đầu chứng minh quyền làm chủ của mình trên người khác. Bạn cố gắng trở thành Alexander Đại đế hay Genghis Khan hay Tamerlane. Đó là nỗ lực để tự lừa dối mình. Đó là nỗ lực để chứng minh cái gì đó mà không có đó chút nào. Bạn đang cố gắng thu thập bằng chứng về quyền làm chủ của mình. Tất nhiên, nếu bạn trở nên đủ mạnh với nhiều người, bạn có thể tin dễ dàng hơn rằng bạn là người chủ. Dễ cho Alexander tin rằng ông ấy là người chủ, nhưng đó chỉ là việc tin không có cơ sở cho nó. Ông ấy là nô lệ cũng như bất kì ai khác thôi; có thể ông ấy là kẻ nô lệ lớn hơn nhiều so với bất kì ai khác.
Khi ông ấy tới Ấn Độ, Alexander gặp một người hiếm hoi, Diogenes. Nếu mà Diogenes được sinh ra ở Ấn Độ thì ông ấy đã được coi là vị phật; ông ấy là một trong những người đã thức tỉnh. Ngay cả Alexander cũng bị ấn tượng rất lớn bởi ông ấy. Ông ấy sống hoàn toàn trần trụi bên bờ sông. Đó là sáng sớm khi Alexander tới gặp ông ấy; ông ấy đang nằm trần trụi trên bờ sông tắm nắng. Thấy con người này, cảm thấy sự hiện diện của ông ấy, Alexander lần đầu tiên cảm thấy một loại tự ti nảy sinh trong mình. Ông ấy đã bắt gặp nhiều vua, ông ấy đã đánh bại nhiều vua, nhưng đây là một vị vua thực - người chủ.
Khi bạn bắt gặp người chủ không thể nào không cảm thấy sự hiện diện được - trừ phi bạn tuyệt đối mù, hoàn toàn điếc, hoàn toàn chết. Alexander phải đã có chút ít nhạy cảm, chút ít tỉnh táo, bằng không ông ta đã không tới gặp vị fakir trần trụi này. Chỉ sự kiện ông ta tới gặp ông ấy, từ cách đó, cũng chỉ ra rằng ông ta có cảm giác sâu sắc gì đó mà tất cả của cải của ông ta đều không đủ làm ông ta hài lòng: "Phải có cách nào đó để được hài lòng chứ. Cuộc sống không thể chỉ là của cải và quyền lực; cuộc sống phải có cái gì đó bí mật hơn cho nó."
Ông ta đã nghe nói nhiều điều về Diogenes: "Ông ấy mang chiếc đèn thắp sáng đi giữa ban ngày, trong ánh sáng chói chang ban ngày. Ông ấy trần trụi, nhưng ông ấy chỉ mang một thứ trong tay mình - chiếc đèn, chiếc đèn đã thắp sáng. Và mọi người hỏi ông ấy, 'Sao ông mang ngọn đèn này?' Và ông ấy nói, 'Ta đang tìm và kiếm người thực; ta còn chưa bắt gặp một người như vậy. Ta mang chiếc đèn này để cho ta không bỏ lỡ người đó.'"
Người thực sao? Người đó hiếm hoi thế sao? Alexander phải đã nghiền ngẫm về điều đó. Ông ta phải đã nghĩ, "Mình là người thực. Để mình tới và xem ông Diogenes này." Ông ta đã nghe nhiều câu chuyện về ông ấy: "Ông ấy dường như là người phúc lạc nhất trên thế giới. Không ai đã bao giờ thấy ông ấy lo âu, phiền não, sợ hãi; ông ấy hoàn toàn bạo dạn."
Alexander đã nghe rằng có lần ông ấy bị vài người bắt - tám người cần có để bắt con người đơn giản này - nhưng ông ấy bảo họ, "Đừng gắng sức nhiều thế, không cần đâu. Các ông muốn gì nào? Đơn giản cứ nói cho ta đi."
Họ nói, "Chúng tôi muốn bán ông ở chợ nô lệ."
Ông ấy nói, "Thế thì không cần phải ráng sức các ông nhiều thế - ta ghét gây rắc rối cho bất kì ai. Ta tới cùng các ông."
Và ông ấy đi cùng họ, đi trước họ. Họ đi theo sau ông ấy cứ dường như họ là tín đồ của ông ấy. Và khi họ tới chợ nơi người bị bán và mua, mọi người đều bị hấp dẫn tới con người đẹp đẽ này. Ông ấy đứng đó trên bục và nói to, "Nghe đây, tất cả các ông đều là nô lệ, những người đã tụ tập ở đây: người chủ đang bị bán! Có nô lệ nào quan tâm tới việc mua người chủ không?"
Cho nên đã có nhiều câu chuyện về Diogenes... Alexander dần dần, dần dần trở nên quan tâm tới mức ông ta tới gặp ông ấy. Chính mối quan tâm này chỉ ra rằng có cảm giác sâu sắc trong ông ấy về cái vô ích của nỗ lực riêng của ông ấy để chinh phục thế giới. Và thấy Diogenes ông ta lập tức cảm thấy bản thân mình là vô thực thể, trong khi Diogenes là con người chân thực. Dầu vậy ông ta vẫn cười điều đó.
Diogenes nói, "Thôi cười đi! Đừng cố lừa mình! Ông có thể thấy sự kiện là ông đang bỏ lỡ cuộc sống."
Và Alexander nói, "Vâng, thưa ông, ta có thể cảm thấy điều đó. Lần đầu tiên ta đã thấy một người thực sự sống. Ta có thể làm gì cho ông? Ta có đủ tiền, ta có thể làm bất kì cái gì. Ông cứ nói đi và điều đó sẽ được thực hiện."
Diogenes nói, "Ta không cần cái gì cả. Ông có thể có tất cả tiền bạc trên thế giới, nhưng ta không có ham muốn nào, cho nên mọi tiền bạc của ông đều tuyệt đối không liên quan. Nhưng một điều ông có thể làm được là đứng dẹp sang bên đi, bởi vì ông đang chắn mặt trời. Đó là mọi điều ta có thể đòi hỏi từ ông và ông sẽ quả là tốt nếu ông có thể đứng dẹp sang bên."
Ông ấy đã không hỏi xin cái gì. Alexander nói với ông ấy, "Nếu ta phải tới thế giới này lần khác, ta sẽ yêu cầu Thượng đế làm ta thành Diogenes thay vì Alexander Đại đế."
Diogenes nói, "Sao đợi tới kiếp sau? Ông có thể là Diogenes ngay bây giờ! Ông không thể thấy ra vấn đề sao?" ông ấy nói. "Chẳng cần gì để là Diogenes cả. Ông làm nhiều nỗ lực thế để chinh phục thế giới và cho dù ông thành công, ông sẽ thu được cái gì từ điều đó? Ông sẽ vẫn khổ như vậy, thực tế còn khổ hơn nhiều, bởi vì ngay bây giờ tâm trí ông bị bận bịu với ý tưởng này, với tham vọng chinh phục thế giới. Một khi ông đã chinh phục nó rồi ông sẽ lúng túng phải làm gì đây. Tốt hơn cả là dừng lại bây giờ!"
Alexander nói, "Ta có thể hiểu được - ông đúng - nhưng ta không thể dừng lại nửa chừng cuộc hành trình của ta được. Ta đã quyết định chinh phục thế giới."
Diogenes nói, "Thế thì cứ làm đi, đừng dừng lại - nhưng cái chết sẽ dừng ông lại giữa chừng đấy. Nó bao giờ cũng dừng mọi người ở giữa chừng, và thế rồi ông không thể làm được gì cả. Thế rồi ông sẽ nhớ tới ta. Và thắng lợi của ông sẽ không giúp cho ông chút nào đâu. Khi cái chết gõ cửa, nô lệ, người nghèo, vua lớn, người chinh phục thế giới, tất cả đều như nhau - họ tất cả đều bình đẳng trong con mắt của cái chết. Cái chết không thể gõ được cửa ta," Diogenes nói. "Nghe, và nhìn vào mắt ta đi. Ta đã chinh phục được cái chết. Đó là thắng lợi thực bởi vì ta đã đi tới biết bản thể thực của ta, cái là bất tử. Ta đã đi tới kinh nghiệm tâm thức của ta, cái đã có trước khi ta được sinh ra và cái sẽ còn đó sau khi ta mất đi. Ta là vĩnh hằng."
Và cái ngày Alexander chết đi ông ấy nhớ tới Diogenes - với nước mắt cay đắng, tất nhiên, bởi vì Diogenes đúng: cả đời ông ta đã là lãng phí cực kì. Ông ta đã đấu tranh và đấu tranh chẳng vì cái gì cả.
Bạn đã nghe câu tục ngữ này: Không cái gì thành công như thành công - điều đó tuyệt đối sai. Tôi gợi ý cho bạn câu tục ngữ khác: Không cái gì thất bại như thành công. Nhưng bởi vì rất ít người thành công, rất ít người đi tới biết điều đó. Những người thành công, họ bao giờ cũng đi tới biết sự bất lực hoàn toàn của thành công.
Phật nói: Con người không được sinh ra để là chủ.
Điều đầu tiên cần được hiểu là bạn là nô lệ của các lực vô ý thức. Đây là bắt đầu, bước đầu tiên hướng tới làm chủ; nhận ra cảnh nô lệ của mình. Thấy rằng bạn vô ý thức là bắt đầu của có ý thức. Nhưng bạn cứ đổ trách nhiệm lên người khác, bạn chưa bao giờ nhìn vào trong; với bất kì nguyên nhân nào bạn cũng chưa bao giờ nhìn vào trong.
Chánh án nhìn nghiêm khắc xuống bị cáo. "Anh thanh niên, chính rượu và một mình rượu chịu trách nhiệm cho trạng thái đáng tiếc hiện tại của anh."
"Tôi mừng được nghe ông nói điều đó, thưa ông chánh án," người này đáp với cái thở dài nhẹ nhõm. "Mọi người khác đều nói đó là lỗi của tôi."
Không ai muốn thừa nhận rằng mình chịu trách nhiệm cho trạng thái đáng tiếc mình đang lâm vào. Bạn bao giờ cũng cố tìm cái cớ nào đó. Bất kì cớ nào cũng có tác dụng; nếu bạn không thể tìm được cớ nào, bạn bao giờ cũng có thể bịa ra. Nhưng bạn chưa bao giờ cảm thấy trách nhiệm.
Bắt đầu của cuộc sống tôn giáo là: nhận trách nhiệm toàn bộ về phần mình. Dù bạn đang là bất kì cái gì, bạn chịu trách nhiệm và không ai khác. Và cuộc sống của bạn là đống lộn xộn.
Bạn có nghe nói về người Polack cố ném mình lên sàn không... và bị lỡ?
Cả đời bạn là thất bại - bất kì cái gì bạn làm, cho dù bạn ném mình lên sàn - lí do là ở chỗ bạn không có ý thức chút nào, không nhận biết chút nào. Bạn đang sống trong vô ý thức thế, bạn gần như cái máy.
Gurdjieff hay nói với đệ tử của mình, "Các ông chưa là người đâu, các ông là máy." Và mọi người thường cảm thấy rất bị xúc phạm; không ai thích ý tưởng rằng mình là máy. "Tôi mà là máy à? Tôi sao - máy sao? Người khác mới có thể làm máy chứ!" Nhưng Gurdjieff đang nói cái gì đó rất bản chất: con người là máy. Mọi người khác có thể thấy điều đó; mọi người khác có thể thấy điều đó về bạn - trừ bạn. Nhưng điều đó sẽ không có ích gì chừng nào bạn còn chưa thấy được nó.
Có ba lữ khách - một người Do Thái, một người Hindu và một người Italy - cần chỗ để trọ qua đêm. Họ gõ cửa nhà một nông dân. Người nông dân nói anh ta chỉ có một phòng cho hai người trong nhà, nhưng một người có thể ngủ ở chuồng ngựa. Người Do Thái nói anh ta sẽ ngủ trong chuồng ngựa.
Họ tất cả đều yên vị nghỉ qua đêm. Một chút ít sau đó có tiếng gõ cửa. Người nông dân trả lời; đó là người Do Thái. Ông ta xin lỗi, nhưng nói có lợn trong chuồng ngựa và vì lợn không phải là chính đáng nên ông ta không thể ngủ qua đêm ở cùng chỗ như chúng. Người Hindu nói ông ta sẽ ngủ trong chuồng ngựa vì lợn không làm ông ta bận tâm.
Người nông dân lại quay về giường. Chút ít sau đó có tiếng gõ cửa; đó là người Hindu. Ông ta xin lỗi và nói ông ra rất tiếc, nhưng có bò trong chuồng ngựa và bò là con vật linh thiêng nên sẽ là không phải để ông ấy ngủ cùng chỗ với chúng. Thế là người Italian đề nghị được ngủ trong chuồng ngựa vì ông ta không có vấn đề với bò hay lợn.
Lần nữa người nông dân lên giường, nhưng chút ít sau đó có tiếng gõ cửa. Người nông dân mệt mỏi trở dậy và đáp lại. Bò và lợn đứng đó!
Ngay cả bò cũng có thể thấy, ngay cả lợn cũng có thể cảm thấy rằng bạn là người Italy - nhưng bạn thì không! Bạn chưa bao giờ nhìn vào bản thân mình, bạn bao giờ cũng nhìn vào người khác. Bạn hội tụ vào người khác. Bạn hướng ngoại tới mức bạn không biết cách quay mắt mình vào trong. Và quay một trăm tám mươi độ là cần thiết. Chừng nào bạn còn chưa bắt đầu nhìn bản thân mình, không có khả năng nào làm chủ trong cuộc sống của bạn; bạn sẽ vẫn còn là nô lệ.
Khi bạn rơi vào tình yêu bạn nghĩ bạn là người chủ. Bạn, hay đấy chỉ là hiện tượng sinh học, hoá chất? Nếu đó là hiện tượng sinh học và hoá chất, bạn không là người chủ. Khi ai đó xúc phạm bạn và bạn trở nên giận dữ, bạn giận dữ hay bạn chỉ là nạn nhân của lực vô ý thức nào đó đang được thoát ra trong bạn? Khi bạn giận, phát rồ, bạn gần như tạm thời điên khùng; bạn có thể làm bất kì cái gì. Bạn có thể phá huỷ, bạn có thể giết người, bạn có thể tự tử. Và bất kì cái gì bạn làm, nếu bạn sống sót qua khoảnh khắc đó bạn sẽ ăn năn. Bạn sẽ nói, "Tôi không thể tin được làm sao điều đó đã xảy ra, làm sao tôi có thể làm điều như thế? Tôi đã làm nó mặc cho bản thân tôi!"
Cách diễn đạt đó là có ý nghĩa. Bất kì khi nào bạn nói, "Tôi đã làm nó mặc cho bản thân tôi," bạn đang thừa nhận, không biết về điều đó, sự nô lệ của mình: rằng mọi sự xảy ra trong bạn đang xảy ra không có bạn - bạn chỉ là nạn nhân.
Không ai được sinh ra là người chủ cả, nhưng mọi người đều được sinh ra với tiềm năng vô cùng để là người chủ. Mọi người đều có thể là người chủ, nhưng rất hãn hữu người đạt tới tiềm năng của họ. Rất hãn hữu mới có người đạt tới đỉnh tối đa của họ, tới cao trào của bản thể họ.
Các nhà tâm lí nói rằng người thường chỉ dùng bẩy tới mười phần trăm tiềm năng của mình trong cả đời mình; chín mươi phần trăm hay hơn vẫn còn không được sử dụng. Và điều này là về người thường. Các nhà tâm lí nói ngay cả người tài năng, người rất tài, cũng không dùng quá mười hai tới mười ba phần trăm. Và những người chúng ta gọi là thiên tài, họ không dùng quá mười lăm phần trăm tiềm năng của họ.
Nghĩ mà xem, nếu toàn thể nhân loại mà dùng một trăm phần trăm tiềm năng của mình - điều có khả năng chứ - sẽ không cần tưởng tượng ra thiên đường, chúng ta có thể làm ra nó ở đây. Chúng ta sẽ trong thiên đường nếu một trăm phần trăm tiềm năng được mọi người sử dụng. Nhưng nếu bạn không dùng nó, nó vẫn còn như một trọng lượng. Thay vì là sự giúp đỡ trong cuộc sống của bạn nó trở thành trọng lượng thế, như tảng đá treo quanh cổ bạn. Cái có thể trở thành con thuyền nay trở thành nguyên nhân cho việc chìm của bạn.
Tôn giáo về căn bản liên quan tới việc giúp bạn đem tiềm năng của bạn vào hành động, làm cho tiềm năng của bạn thành thực tại, để cho nó không chỉ có đó như hạt mầm mà còn trở thành bông hoa và hương thơm lớn lao được toả ra.
Đó là điều đã xảy ra cho Phật Gautama, đó là điều đã xảy ra cho Jesus Christ. Vài người này cũng giống như bạn thôi, cũng được làm từ cùng chất liệu. Không có gì đặc biệt về họ cả, họ không phải là người đặc biệt. Quên ý tưởng đó đi. Các tu sĩ đã từng thuyết giảng điều đó qua nhiều thời đại - rằng họ là đặc biệt, rằng Jesus là đứa con duy nhất của Thượng đế. Đó tất cả toàn là điều cực kì vô nghĩa. Bạn cũng là con của Thượng đế như Jesus vậy, không nhiều hơn không ít hơn - không khác biệt giữa bạn và Jesus. Khi có liên quan tới tiềm năng bạn tuyệt đối giống nhau. Nhưng Jesus đã hiện thực nó còn bạn thậm chí chưa chạm tới nói, nó đơn giản nằm đó. Nó là kho báu đã không được dùng, và bất kì cái gì không được dùng trong một thời gian dài đều chết, trở nên cũ rích. Nó mục nát ra, nó trở thành trọng lượng chết trên bạn, nó làm cho bạn nặng nề và ốm yếu.
Phật không có gì đặc biệt trong ông ấy. Tất nhiên, sư Phật giáo nói rằng ông ấy là đặc biệt. Tại sao các tu sĩ này cứ nói rằng Phật là đặc biệt, Mahavira là đặc biệt, Jesus là đặc biệt, Krishna là đặc biệt? Tại sao? - bởi lẽ đơn giản: điều đó giúp bảo vệ bản ngã của chúng ta. Họ là đặc biệt, chúng ta có thể làm được gì? Nếu họ trở nên chứng ngộ, họ nhất định trở nên chứng ngộ, họ tới với năng lực đặc biệt. Chúng ta là con người bình thường, họ là những hoá thân. Họ là con cháu trực tiếp của Thượng đế, chúng ta ở rất, rất xa xôi, họ hàng xa, và khoảng cách lớn tới mức không thể nào bắc cầu qua nó được. Họ tới trực tiếp từ bề trên; họ là sứ giả của Thượng đế, những cứu tinh, nhà tiên tri, tirthankaras - còn chúng ta là người thường.
Đây là cách bảo vệ bản ngã của chúng ta - cách rất logic, cách rất hợp lí.
Bạn có cho rằng bạn đang tỏ lòng kính trọng bằng việc nói rằng Jesus là con duy nhất của Thượng đế không? Bạn chả bày tỏ kính trọng gì cả, bạn đang rất tinh ranh; bạn đang cố bảo vệ bản thân mình. Bạn đang nói, "Ông ấy là đặc biệt còn chúng tôi là bình thường, cho nên chúng tôi phải cư xử theo cách bình thường. Bạn có thể cư xử như người đã chứng ngộ. Chúng tôi có thể làm cái gì về điều đó được? Chúng tôi làm theo cách này. Trách nhiệm là của Thượng đế, không phải của chúng tôi. Không phải số mệnh của chúng tôi phải là vị Phật hay phải là một Krishna hay phải là Lão Tử. Không phải định mệnh của chúng tôi là một Zarathustra. Họ đã được định mệnh còn chúng tôi không được định mệnh. Cho nên nếu cái gì đó xảy ra cho họ thì nó nhất định xảy ra, chẳng cái gì xảy ra cho chúng tôi bởi vì chẳng cái gì được định mệnh cho chúng tôi."
Đây là thủ đoạn, là phương lược. Phật muốn bạn được nhắc nhở rằng bạn được làm từ cùng chất liệu, cùng máu, cùng xương, cùng tuỷ, cùng tâm thức. Khác biệt duy nhất là ở chỗ bạn không làm việc trên bản thân mình, bạn không dùng cơ hội này, bạn không biến đổi bản thân mình. Và bạn cứ tìm cớ: "Làm sao tôi có thể làm được điều đó? Chúng tôi có nhiều con thế và vợ và chồng và cha mẹ. Và chúng tôi phải làm việc trong thế giới và chúng tôi phải kiếm tiền và kiếm sống." Bạn cứ tạo ra cớ.
Đó là lí do tại sao nhấn mạnh của tôi là ở chỗ không ai trong các sannyasin của tôi được bỏ thế giới bình thường. Họ phải trở nên chứng ngộ trong thế giới bình thường để cho cớ này, cớ truyền thống này, có thể bị vứt bỏ mãi mãi.
Và có những người đã trở nên chứng ngộ sống các kiếp sống rất bình thường. Kabir là bố và là chồng, và ông ấy đã làm việc cả đời mình - ông ấy là thợ dệt - vậy mà ông ấy đã trở nên chứng ngộ. Ông ấy đã không từ bỏ thế giới này, ông ấy đã không trốn đi. Hay Raidas, ông ấy là thợ giầy. Ông ấy liên tục làm công việc của mình, ông ấy vẫn còn trong thế giới, và trở nên chứng ngộ.
Và đã có nhiều người, nhưng bạn sẽ ngạc nhiên nhiên: các tu sĩ không nói gì mấy về những người này bởi vì những người này là nguy hiểm. Họ nói về từ bỏ của Phật, rằng ông ấy đã từ bỏ thế giới, đi vào trong rừng; họ nói về Mahavira người đã từ bỏ vương quốc của mình. Ngay chỗ đầu tiên bạn phải có vương quốc để từ bỏ. Vương quốc ở đâu? Và nếu bạn không có vương quốc, thế thì trong kiếp sống này ít nhất bạn cũng không thể trở nên chứng ngộ được. Cho dù bạn có vương quốc, thế thì bạn phải từ bỏ nó.
Jesus được trình bày theo cách gần như không thể nào quan niệm nổi về ông ấy là con người. Ông ấy được sinh ra từ người mẹ đồng trinh - bây giờ, vô nghĩa làm sao! Bạn không được sinh ra từ người mẹ đồng trinh, cho nên ít nhất kiếp này bạn đã lỡ tầu. Kiếp sau chọn người mẹ đồng trinh đi, bởi vì mọi thứ bắt đầu từ đó! Ngay chỗ đầu tiên bạn đã chọn sai tầu... Nhưng có khó khăn: nếu bạn chọn người mẹ đồng trinh thì bạn là con hoang. Nếu Jesus chọn người mẹ đồng trinh ông ấy đơn giản là ngoại lệ - đó là ân huệ của Thượng đế.
Các tu sĩ đã từng cố gắng tạo ra khoảng cách giữa bạn và người chứng ngộ để cho bạn có thể cảm thấy thoải mái. Và nỗ lực của mọi chư phật không phải là để bạn cảm thấy thoải mái, mà là làm cho bạn bất ổn, làm cho bạn không được hài lòng về điều thiêng liêng, làm cho bạn nhận biết rằng bạn có khả năng của phúc lạc vô cùng và bạn đang bỏ lỡ nó, làm cho bạn tỉnh táo rằng đó là quyền tập ấn của bạn và vậy mà bạn đã không đòi nó.
Con người không được sinh ra để là chủ.
Người chủ không bao giờ tự hào.
Nhưng Phật ngay trong lời kinh thứ hai nói điều gì đó rất có ý nghĩa, bởi vì có mọi khả năng rằng ông ấy sẽ bị hiểu lầm - do đó mới có phát biểu thứ hai. Ông ấy nói rằng làm chủ là thành tựu nhưng không theo nghĩa bình thường của từ này, bởi vì bất kì khi nào bạn đạt tới cái gì đó bạn đều trở nên tự hào; bạn nói, "Tôi đã đạt tới cái này." Nếu làm chủ là thành tựu - mà chắc chắn nó là vậy - đó là theo nghĩa hoàn toàn khác với thành tựu thông thường. Nó không giống việc trở thành tổng thống một nước hay trở thành người giầu nhất thế giới; nó không giống việc trở nên nổi tiếng - nó là hoàn toàn khác. Khác biệt này là ở chỗ trong chính thành tựu đó của nó người thành đạt chết đi.
Nhớ điều đó, đừng bao giờ quên điều đó; bằng không tính tâm linh của bạn có thể trở thành trò bản ngã mới. Do đó, ngay lập tức, Phật nói thêm: Người chủ không bao giờ tự hào. Người đó không thể thế được - bởi vì người đó không còn nữa! Đây là thành tựu rất kì lạ: trong chính quá trình đạt tới nó, bản ngã tan chảy, biến mất. Thực tế nó chỉ xảy ra khi bản ngã không được tìm thấy nữa. Đó là thành tựu rất ngược đời: thành tựu chắc chắn đấy, nhưng không có người thành tựu. Cũng như miếng đường tan trong cốc trà, người thành tựu tan biến trong bản thân việc thành tựu. Người đó không còn được tìm thấy ở đâu nữa. Người đó trở thành một với thành tựu. Thành tựu không phải là cái gì đó người đó có thể ba hoa, nó đơn giản là việc nở hoa tự nhiên. Người đó không tự hào về nó.
Hoa hồng không tự hào, hoa sen không tự hào, tất nhiên, dù chúng đẹp thế nào. Mặt trời mọc không tự hào, mặt trời lặn không tự hào, đêm đầy sao không tự hào, trăng tròn không tự hào. Điều đó là tự nhiên; không có gì để nói về nó cả. Đó là cách nó phải vậy. Không có vấn đề tự hào về nó, không có nêu cao bản ngã về nó.
Cẩn thận với bản ngã. Nếu bạn bắt đầu ba hoa về thành đạt tâm linh của mình, bạn đã bỏ lỡ toàn bộ vấn đề. Nó không phải là tâm linh chút nào; nó lại là cùng trò chơi được chơi bằng từ mới. Chỉ từ đã thay đổi, nhưng không cái gì thực sự được thay đổi; đã không có biến đổi.
Và mọi người chơi trò chơi của bản ngã theo nhiều cách. Người Ấn Độ nghĩ rằng người đó là linh thiêng nhất, người tâm linh nhất thế giới; bây giờ đó là cùng trò chơi đó thôi. Người Mĩ nghĩ, bởi những lí do khác, rằng người đó là đặc biệt, rằng người đó cao hơn bất kì ai khác. Và đấy cũng là trường hợp cho mọi người. Bạn sẽ không thấy một giống nòi trên thế giới này, một quốc gia trên thế giới này mà không nghĩ rằng nó là đặc biệt. Bây giờ trò chơi này được chơi nhân danh quốc gia, giống nòi.
Mọi tôn giáo đều nghĩ, "Đây là con đường duy nhất, con đường đúng duy nhất: mọi con đường khác đều sai." Nếu bạn hỏi người Jaina người đó nghĩ mọi con đường khác đều là giả. Nếu bạn hỏi người Ki tô giáo người đó có cùng ý tưởng: "Chừng nào ông không là người Ki tô giáo ông sẽ không được cứu đâu, ông sẽ chịu đoạ địa ngục đấy." Hỏi người Mô ha mét giáo... Và bạn sẽ ngạc nhiên: họ thuộc vào các tôn giáo khác nhau, nhưng họ có thực sự thuộc vào các tôn giáo khác nhau không hay họ tất cả đều thuộc vào cùng một tôn giáo - tôn giáo của bản ngã? Họ tất cả đều thuộc vào cùng một tôn giáo: tôn giáo của bản ngã.
Người da trắng nghĩ mình là đặc biệt, người da đen nghĩ mình là đặc biệt...
Tôi đã nghe một câu chuyện về Ts. Radhakrishnan. Ông ấy là tổng thống Ấn Độ và ông ấy nói với vài người bạn.
Một người da trắng nói, "Chúng tôi là người tốt nhất - bằng không sao Thượng đế làm chúng tôi thành da trắng?"
Radhakrishnan nói với người da trắng, "Ông bị nấu còn sống quá, đó là lí do tại sao ông lại da trắng!"
Một người da đen cũng có mặt; người đó rất hạnh phúc. Người đó nói, "Điều đó đúng rồi. Chúng tôi là tốt nhất!"
Radhakrishnan nói, "Ông được nấu quá chín - ông gần như bị cháy hết rồi! Chúng tôi mới là người tốt nhất, chúng tôi vừa chín tới, không trắng không đen. Được nấu vừa phải."
Mọi người cứ cố bảo vệ bản ngã mình theo mọi cách có thể.
Một nhà khảo cổ Ai cập và một nhà khảo cổ Ấn Độ ganh đua với nhau.
"Trong cuộc khai quật gần đây của chúng tôi, chúng tôi bắt gặp dây cáp dài và đã suy luận rằng đó là một loại hệ thống điện thoại từ thời đó," người Ai Cập khoe khoang.
"Chúng tôi đã đào và đào và chúng tôi không thể tìm ra cáp nào cả. Chúng tôi đã đi tới kết luận là đã có không dây vào thời đó ở Ấn Độ," người đồng nghiệp Ấn Độ của ông ta nói.
Cẩn thận đấy! Chúng ta đang chơi cùng trò chơi nhân danh tôn giáo, nhân danh quốc gia, nhân danh giống nòi, nhân danh mầu da, nhưng trò chơi vẫn như cũ. Cái tên của trò chơi này là bản ngã.
Người tâm linh là người đã dừng chơi trò chơi này. Người đó là người chủ. Người chủ không bao giờ tự hào.
Người đó không nói hạ thấp người khác.
Người đó không có cái nhìn ta linh thiêng hơn ngươi. Nhưng nhìn vào cái gọi là thánh nhân của bạn mà xem - họ tất cả đều nhìn bạn với kết án sâu sắc. Họ biết bạn là tội nhân và họ là thánh nhân. Họ là người cao hơn, siêu sinh linh; bạn là người trần tục, phàm nhân, bình thường. Bạn đã làm gì? Bạn có thể tuyên bố đức hạnh gì? Họ có thể tuyên bố rằng họ đã từng nhịn ăn trong nhiều năm, rằng họ vô dục, rằng họ ăn chỉ một lần một ngày, rằng họ ngủ chỉ ba giờ một đêm. Và họ đã phát minh ra nhiều cách hành hạ bản thân họ. Và tất nhiên hành hạ trong hàng thế kỉ đã được coi là con đường hướng tới tâm linh. Nó là tự bạo, thuần tuý tự bạo: nó chẳng liên quan gì tới tâm linh cả. Nhưng khi một người tự hành hạ mình, tất nhiên người đó có thể cảm thấy bản ngã của mình được thoả mãn. Bạn không thể làm được điều đó và người đó đang làm điều đó. Và bạn chắc chắn bắt đầu cảm thấy tự ti vì điều đó là khó để bạn làm nó.
Nếu bạn thấy một người nằm trên giường gai, bạn không thể làm được điều đó. Chắc chắn người đó cao hơn, người đó có quyền năng cao siêu. Và nếu người đó nhìn bạn như kẻ bị kết án, như người sắp xuống địa ngục, bạn phải chấp nhận điều đó bởi vì ông ấy được thưởng. Bạn đã làm gì? Bạn đã chẳng làm gì như thế cả. Bạn không ngủ được trên cái giường như vậy; bạn là người rất bình thường. Ý chí của ông ấy như thép - nhìn sức mạnh ý chí của ông ấy!
Và điều đó chẳng là gì cả. Người đó đơn giản ngu hơn bạn, người đó đờ đẫn hơn bạn, thân thể người đó kém nhạy cảm hơn thân thể bạn. Và có các phương pháp để làm cho thân thể bạn ngày một kém nhạy cảm đi. Nếu bạn ngồi trần dưới mặt trời nóng thân thể bạn bắt đầu bị cháy xém; dần dần, dần dần tất cả những phần nhạy cảm vốn rất mảnh mai trở thành cứng ngắc - chúng phải trở thành cứng ngắc. Bạn trở thành người da dầy và da càng dầy, bạn càng dễ nằm trên giường gai.
Bạn không quan sát sao? Đàn bà có thể dùng quần áo cộc tay dễ dàng hơn đàn ông bởi lẽ đơn giản là tay họ ít nhạy cảm - đẹp hơn nhưng ít nhạy cảm hơn. Ngay cả ở các nước lạnh họ cũng có thể đi rất dễ dàng với quần áo cộc tay; đàn ông thấy điều đó là khó. Thân thể đàn ông nhạy cảm hơn theo cách đó và mong manh hơn. Ở các nước lạnh đàn ông cần ca vạt để ngăn cản khí xâm nhập vào. Và nhìn đàn bà - quần áo của họ gần như biến mất!
Thân thể họ ít nhạy cảm hơn; họ phải ít nhạy cảm hơn bởi vì họ phải là mẹ. Cho sinh con và có thân thể rất nhạy cảm sẽ là khó, sẽ rất đau đớn, sẽ hoàn toàn đau đớn. Nếu bạn có ý tưởng nào... nếu thân thể rất nhạy cảm thì mang đứa bé trong bụng trong chín tháng sẽ là hành hạ lớn lao. Cứ nghĩ về bản thân bạn mang đứa bé trong bụng trong chín tháng... bạn sẽ tự tử! Điều đó sẽ là không thể được. Tự nhiên làm cho thân thể đàn bà kém nhạy cảm và bù lại nó đẹp hơn và tròn trĩnh hơn. Thân thể đàn ông không đẹp thế, không tròn thế, nhưng nhạy cảm hơn - nhạy cảm với lạnh, nhạy cảm với nhiệt, nhạy cảm với nhiều thứ.
Đó là một trong những nguyên nhân của xung đột thường xuyên giữa đàn ông và đàn bà: vì đàn bà tới cực thích rất chậm; nhạy cảm của cô ấy kém hơn nhiều. Phải mất thời gian dài cho cô ấy đi tới cực thích. Đàn ông tới nhanh; thân thể anh ấy rất nhạy cảm. Và lỗ hổng giữa thân thể đàn ông và thân thể đàn bà tạo ra vấn đề lớn. Chừng nào đàn ông còn chưa rất tỉnh táo và làm mọi chăm sóc đi từ từ cùng thân thể đàn bà, đàn bà sẽ không bao giờ được thoả mãn.
Và sự không thoả mãn của cô ấy sẽ biểu lộ theo nhiều cách: trà của bạn sẽ nguội lạnh, rau của bạn sẽ mặn quá. Cả ngày, từ trong bếp, nhưng tiếng động loảng xoảng bát chén vỡ sẽ vọng tới, cứ dường như bạn đang sống trong động đất! Không phải là cô ấy đang làm điều đó một cách có ý thức, điều đó nữa là tuyệt đối vô ý thức - không ai là chủ, tất cả đều là nô lệ - nhưng cô ấy đang báo thù theo cách riêng của cô ấy.
Cho nên bất kì khi nào bạn muốn làm tình với đàn bà, lập tức cô ấy bị đau đầu, cô ấy mệt mỏi, cô ấy không thích, bởi lí do đơn giản là cô ấy chưa bao giờ đạt tới cực thích. Tại sao cô ấy phải tham gia vào trò chơi mà cô ấy bao giờ cũng là người thua thiệt? Mới chỉ gần đây đàn ông mới trở nên nhận biết về khác biệt này; khác biệt đó có thể được bắc cầu qua, nhưng cần có kĩ năng.
Cứ bảo vợ bạn châm vào lưng bạn bằng chiếc kim ở nhiều chỗ, và bạn sẽ ngạc nhiên: có vài chỗ tuyệt đối không nhạy cảm - chả cảm thấy cái kim chút nào - và vài chỗ có thể cảm thấy cái kim. Vài chỗ bị mù. Những người nằm trên giường gai đã đơn giản thu xếp mọi thứ theo cách gai chạm vào những điểm mù. Đó chỉ là một loại kĩ năng; chẳng có gì trong đó, chẳng có gì thiêng liêng trong đó.
Bạn có thể ăn một lần một ngày. Có những bộ lạc, nhiều bộ lạc nguyên thuỷ, ở Nam Phi, ở Himalayas, chỉ ăn một lần một ngày. Thân thể được điều chỉnh thế: bạn có thể ăn một lần một ngày, thế rồi nó ăn quá nhiều. Bạn có thể ăn hai lần, bạn có thể ăn ba lần, thế thì điều đó phân chia ra. Bạn có thể ăn năm lần... và, thực tế, ăn năm lần còn khoa học hơn nhiều so với ăn một lần, bởi vì ăn một lần nghĩa là đưa quá nhiều tải vào trong hệ thống. Tốt hơn thì nên chia tải này ra. Và nếu người là khỉ thực sự xuống đất, xem khỉ đấy - chúng ăn cả ngày! Người Mĩ đang làm đích xác điều đó, cho nên dù Darwin có đúng về bất kì ai hay không, ông ấy đúng về người Mĩ!
Bạn có thể ăn một lần một ngày; thân thể sẽ điều chỉnh theo điều đó. Những điều này chẳng liên quan gì tới tâm linh cả, nhưng đây là những điều cái gọi là thánh nhân của bạn cứ ba hoa mãi.
Người chủ thực không tự hào: Người đó không nói hạ thấp người khác. Người chủ thực là người đã nhận ra rằng mọi người đều có cùng tiềm năng. Làm sao người đó có thể nói hạ thấp người khác được?
Phật đã nói rằng khi ông ấy trở nên chứng ngộ, lập tức ông ấy thấy rằng toàn thể vũ trụ đã trở nên chứng ngộ cùng ông ấy. Điều này là đúng khi có liên quan tới ông ấy. Tất nhiên toàn thể vũ trụ đã không trở nên chứng ngộ - bạn chưa trở nên chứng ngộ - nhưng khi có liên quan tới Phật điều đó là tuyệt đối đúng. Ông ấy đã thấy tiềm năng này, ông ấy đã thấy rằng mọi người đều như nhau. Chỉ có điều vài người đã thức tỉnh và vài người còn ngủ; đó là khác biệt duy nhất, và đó không phải là khác biệt lớn thế. Đừng làm ầm ĩ lên về điều đó.
Và cho dù các thánh nhân của bạn không nói một cách trực tiếp, "Chúng tôi linh thiêng hơn ông," theo nghìn lẻ một cách gián tiếp chúng vẫn cứ nói cho bạn.
Mọi lần cậu cao bồi chăn bò cưỡi ngựa đi qua làng người da đỏ anh ta đều vẫy chào người tù trưởng có tuổi. Để đáp lại ông già giơ ngón tay lên theo cách thức thông thường, rồi ông ta quay bàn tay để cho ngón thứ ba vắt theo chiều ngang.
Sau vài tuần anh chăn bò không thể đừng được lâu hơn nữa. Anh ta dừng ngựa lại và nói với người da đỏ, "Tôi biết ngón tay trỏ thẳng lên nghĩa là gì, nhưng ông quay nó sang bên thì nghĩa là gì?"
"Tôi không thích con ngựa của anh nữa!" ông tù trưởng đáp lại.
Có cách trực tiếp và cách gián tiếp, cử chỉ. Cách thánh nhân của bạn nhìn vào bạn - họ có thể không nói một lời - cách họ cư xử, mọi thứ đều trỏ tới một điều: rằng họ cao hơn bạn. Và họ giữ cho bạn thường xuyên sợ địa ngục. Họ bảo bạn, "Cẩn thận địa ngục đấy. Anh nhất định xuống địa ngục." Cho nên họ làm cho bạn tỉnh táo trước.
Người thuyết giảng Pitts đã tiến hành vào sáng hôm nọ việc mô tả nỗi khủng khiếp của địa ngục cho giáo đoàn của ông ấy.
"Hỡi các anh các chị," ông ấy ngân nga, "một số trong các vị đã thấy sắt chảy ra từ lò luyện, đúng không nào? Nó mầu trắng, kêu xèo xèo và xì xì. Rồi, ở chỗ tôi đang nói tới đó họ dùng chất liệu đó làm kem!"
Toàn thể nỗ lực của họ là làm cho bạn kinh sợ nhất có thể được. Nhìn vào ý tưởng lớn lao về kem đó! Và nếu bạn muốn lên cõi trời bạn phải tuân theo lời khuyên của họ, bạn phải đi theo dấu chân của họ, bạn phải trở thành kẻ bắt chước. Và kẻ bắt chước là người giả. Người chủ thật không bao giờ là kẻ bắt chước.
Do đó tôi nói với bạn, đừng bao giờ trở thành người Ki tô giáo, là một christ đi, và không bao giờ trở thành Phật tử, là vị phật đi. Tiềm năng của bạn là khả năng vô hạn tới mức tại sao bạn phải trú ngụ ở chỗ nhỏ bé thế? Chỉ là người Ki tô giáo là cái thay thế nghèo nàn - sao không là một christ? Sao không là bản thân vị phật? Sao là Phật tử thôi?
Nhưng các nhà thuyết giáo đang bảo bạn: Hãy là người Ki tô giáo, hãy là Phật tử, hãy là người Jaina, hãy là người Hindu! Họ không nói cho bạn tiềm năng tối thượng, họ muốn bạn là tín đồ. Và tất nhiên không Phật, không Jesus nào sẵn có, cho nên họ là đại diện. Họ đã tạo ra một phương cách: Đi theo Jesus! Tất nhiên bạn sẽ phải theo giáo hoàng rồi - Jesus đâu nào? Giáo hoàng là đại diện và giáo hoàng không thể sai được. Nhìn vào tất cả cái ngu xuẩn của nó đi. Chỉ người ngu mới có thể nói rằng ông ấy là không thể sai - ngay cả Thượng đế cũng không phải là không thể sai.
Sai sót là một phần của trò đùa này - Thượng đế phải có thể sai được chứ; bằng không thì ngài đã không làm ra bạn rồi! Thượng đế phải có thể sai; bằng không tại sao và làm sao ngài xoay xở mà tạo ra con người? Và kể từ đó ngài đã không tạo ra cái gì cả; ngài đã dừng lại - thấy điều mình đã làm, ngài dừng lại toàn thể quá trình này. Kể từ đó chẳng cái gì đã được nghe nói tới về ngài, ngài ở đâu, ngài đang làm gì.
Kinh Thánh nói rằng trong sáu ngày ngài đã tạo ra thế giới này - được; ngày thứ bẩy ngài nghỉ. Và tuần tiếp thì sao? Thứ hai có tới hay không? Và kể từ đó thế thì ngài đã làm gì? Thấy rằng mình đã phạm phải sai lầm ngài phải trốn thật xa nhất có thể được.
Bây giờ các nhà khoa học nói thế giới này, vũ trụ này đang mở rộng. Lí do đơn giản là ở chỗ Thượng đế đang trốn đi, cho nên cùng với ngài tất nhiên thế giới cứ mở rộng ra; biên giới cứ mở rộng với tốc độ cực kì lớn. Bạn có biết ngài đang trốn khỏi bạn với tốc độ nào không? Một trăm tám mươi sáu nghìn dặm một giây! Đó là tốc độ mà vũ trụ đang mở rộng; đó phải là tốc độ trốn chạy của ngài. Và tôi không nghĩ chúng ta có khả năng bắt kịp ngài; dường như là không thể nào làm được con tàu không gian có thể đi với tốc độ đó, bởi vì đó là tốc độ của ánh sáng và bất kì cái gì chuyển động với tốc độ đó sẽ lập tức trở thành ánh sáng. Cho nên nếu bạn đi với tốc độ đó, máy bay và hành khách và phi công, tất cả sẽ biến mất; họ sẽ đơn giản trở thành ánh sáng thuần khiết. Với tốc độ đó mọi thứ sẽ tan ra và trở thành ánh sáng. Trừ phi chúng ta có thể tìm ra cách nào đó không đi theo ngài mà cố tìm thấy ngài ở phía bên kia...
Và tôi nghĩ đó là cách thức của chư phật. Họ không cố đạt tới Thượng đế, họ không đuổi theo ngài, họ đơn giản đứng im lặng. Đó là cách khác, cách đi vòng - bởi vì ngài có thể trốn được bao lâu? Nếu vũ trụ cũng tròn, chung cuộc ngài sẽ quay lại nơi mọi người đang đứng - và có khả năng của gặp gỡ.
Người đó không nói hạ thấp người khác.
Không có cái gì, người đó không bỏ lỡ cái gì.
Vị phật đơn giản dùng, người chủ dùng. Người đó không có cái gì, người đó không phải là người chủ. Hoặc người đó không có gì hoặc người đó có cả vũ trụ - đây là đang nói cùng một điều theo hai cách khác nhau. Không có nhu cầu có cái gì cả - người đó dùng. Bạn dùng mặt trời, bạn dùng mặt trăng; bạn không cần có chúng. Cho nên, nếu một ngày nào đó mặt trời bị mây che bạn không cần trở nên lo âu, bạn không cần phát điên, bạn không cần lo nghĩ: "Điều gì đang xảy ra cho mặt trời của ta?" Điều đó chẳng liên quan gì tới bạn. Nếu một ngày nào đó mặt trăng bị nguyệt thực bạn không lo nghĩ chút nào bởi vì bạn không có nó; nếu bạn có nó, thế thì rắc rối nảy sinh. Nếu bạn có vườn và hoa hồng không nở, thế thì có lo lắng; nếu bạn không có nó, thế thì bạn chỉ tận hưởng.
Người chủ tận hưởng sự tồn tại nhưng người đó không có cái gì; bởi vì người đó không có cái gì, người đó không bỏ lỡ cái gì.
Người đó không sợ.
Không có gì mất, sao người đó phải sợ?
Người đó không run rẩy.
Soren Kierkegaard nói rằng mọi người đều run rẩy bên trong, có run rẩy thường xuyên - và ông ấy đúng. Sợ chết giữ bạn run rẩy thường xuyên. Bạn có thể giữ bản thân mình bận bịu trong cả nghìn lẻ một thứ và bạn có thể quên mất về run rẩy bên trong của mình, nhưng nó có đó.
Soren Kierkegaard là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của bán cầu phương Tây. Điều ông ấy nói ông ấy phải nói từ kinh nghiệm cá nhân riêng của ông ấy; ông ấy rất sợ chết. Ông ấy sợ chỉ hai thứ: chết và tiền. Ông ấy chưa bao giờ kiếm được cái gì. Bố ông ấy đã để lại số tiền ngân hàng nào đó cho ông ấy; ông ấy sống trên nó. Từng tháng, vào ngày đầu tiên, ông ấy đi tới ngân hàng và rút một số tiền nào đó và sống bằng số tiền đó. Ông ấy sống một cách rất, rất tiết kiệm, nhưng ông ấy rất sợ: chẳng chóng thì chầy tiền sẽ hết - đó là mối lo thường xuyên của ông ấy. Những người đã thấy ông ấy ở Copenhagen đi vào ngân hàng và trở về nhà bao giờ cũng trong trạng thái run rẩy.
Và thế rồi cái chết... và cái chết chắc chắn có liên quan tới tiền. Những người rất sợ chết bắt đầu tích luỹ tiền như thứ bảo vệ - cứ dường như tiền có thể bảo vệ được! Những người không sợ chết không quan tâm mấy tới tiền; họ dùng tiền, nhưng họ không chăm nom.
Và một điều lạ xảy ra: Soren Kierkegaard chết trên đường đúng vào ngày ông ấy rút số tiền cuối cùng khỏi ngân hàng. Ông ấy về nhà từ ngân hàng; đây là số tiền cuối cùng, số dư ngân hàng đã kết thúc. Người quản lí nói, "Tháng sau ông không cần tới nữa - tất cả tiền đã hết rồi." Ông ấy ngã xuống giữa đường - ông ấy không về tới nhà - và chết ngay ở đó. Nếu tiền hết, cuộc sống hết! Ông ấy phải đã là con người của cực kì sợ hãi.
Khi ông ấy còn trẻ ông ấy đã yêu một người đàn bà, Regina. Trong ba năm chuyện tình tiếp tục và chung cuộc, khi họ định lấy nhau, ông ấy đã từ chối. Điều đó rất kì lạ bởi vì Regina là người đàn bà đẹp và ông ấy là người đàn ông xấu. Nếu Regina mà từ chối điều đó sẽ là logic, nhưng sao Kierkegaard đã từ chối? Ông ấy đã từ chối bởi lí do đơn giản là "Nếu chúng ta lấy nhau và rắc rối nào đó nảy sinh, thì sao? Nếu đánh nhau nảy sinh hay nếu cô ấy yêu ai đó khác thì sao? - cô ấy là người đàn bà đẹp thế..." Sợ mọi khả năng của tương lai, ông ấy đơn giản từ chối. Ông ấy từ chối sống! Ông ấy chưa bao giờ rời khỏi thành phố, ông ấy sợ tai nạn thế. Cho nên khi ông ấy nói con người run rẩy ông ấy đang nói điều đó từ kinh nghiệm cá nhân.
Phật nói: Người chủ không run rẩy. Tất cả run rẩy biến mất bởi vì người đó biết không có cái chết. Biết bản thân mình người đó đã siêu việt trên cái chết. Người đó không sợ tương lai bởi vì người đó sống trong hiện tại. Người đó không sở hữu; do đó không cái gì có thể bị lấy đi khỏi người đó.
Không cái gì trói buộc người đó.
Người đó tự do vô hạn.
Bởi vì người đó không sở hữu, không cái gì trói buộc người đó.
Người đó tự do, tuyệt đối tự do.
Cho nên chặt phăng qua dây lụa và dây da và dây thừng.
Làm lỏng việc trói chặt.
Mở các cánh cửa của giấc ngủ và thức dậy.
Ba điều là tù túng của chúng ta: thân, tâm, ngã - dây lụa và dây da và dây thừng. Cho nên chặt phăng qua... Nhận biết bạn không là thân thể không là tâm trí không là cái ngã. Nhận biết là lưỡi kiếm chặt phăng qua.
Và làm lỏng việc trói chặt: thèm khát, tham lam, giận dữ, hận thù, tham vọng, ghen tị, sở hữu.
Mở các cánh cửa của giấc ngủ: đánh thức bản thân mình, trở nên có ý thức.
Trên xe điện ngầm đông đúc một cô thứ kí ngăm ngăm đen lực lưỡng cảm thấy đằng sau mình sự hiện diện của một anh chàng có dâm dục. Cô ta cố gắng tránh xa, nhưng sự bồn chồn của cô ta chỉ làm cho mọi sự tồi tệ hơn. Cuối cùng cô ta quay lại và gắt gỏng, "Này ông, ông là đồ thô bỉ!"
"Tôi có làm gì sai đâu, cô em!" người da đen nói. "Nhưng tôi có thể hiểu được tại sao cô lại hơi tức. Tôi được trả lương tối nay, ông chủ chẳng có gì ngoài chút tiền lẻ, và nó làm cộm túi quần tôi. Tin tôi đi, em xinh, tất cả có vậy về nó thôi."
"Tôi cho rằng," người đàn bà nói, "ông cũng muốn tôi tin rằng mọi lúc chúng ta đứng ở đây ông chủ của ông đều cho ông lên lương sao!"
Nhìn vào dục của bạn, vào giận của bạn, và tham của bạn mà xem. Bạn hoàn toàn trong quyền lực của chúng, bất lực trong quyền lực của chúng.
Phật không phải là nhà siêu hình; ông ấy là nhà siêu tâm lí. Ông ấy là người đầu tiên tạo ra tâm hồn của chư phật.
Ông ấy nói: Chặt phăng qua tất cả những cảnh nô lệ này. Mở các cánh cửa của giấc ngủ và thức dậy.
Bà Rafferty đang ngồi ở nhà ở Dublin cùng lũ con mình, tất cả đều chờ đợi người đàn ông trong nhà về từ chỗ làm ở xưởng nước ngọt địa phương. Có tiếng gõ cửa. Khi bà Rafferty mở cửa bà ấy thấy Mick đứng đó với đôi mắt cụp xuống và cái nhìn buồn bã trên mặt anh ta. "Tin dữ đây," anh ta nói. "Pat ngã vào trong thùng rượu whiskey và chết đuối chiều nay."
Bà Rafferty và lũ trẻ con buột khóc với nước mắt đau buồn, nhưng bà ấy xoay xở nói lắp bắp, "Ôi Jesus, ông ấy có khổ không? Cái chết có đau đớn không?"
Mick vừa nói vừa ho một cách tôn kính và ngả mũ ra. "Không, thưa bà," anh ta nói, "Tôi không nghĩ thế đâu. Ông ấy chui ra hai lần để đi đái!"
Thức dậy đi. Nhìn điều bạn đang làm đấy, nhìn cuộc sống của bạn bao gồm những cái gì. Có nhận biết nào không hay nó chỉ là trò chơi vô ý thức của các lực vô ý thức? Bạn là nạn nhân của các lực mà bạn không nhận biết tới - hoặc chúng tới từ đâu hoặc chúng đang làm gì cho bạn? Bạn sẽ chết đi theo cách này sao?
Người chủ chịu đựng sỉ nhục và đối xử tệ không phản ứng.
Người chủ không thể phản ứng được. Người đó đáp ứng, nhưng người đó không bao giờ phản ứng. Phản ứng tới từ quá khứ, đáp ứng là tự phát; nó là trong hiện tại. Nô lệ phản ứng, người chủ đáp ứng. Tâm trí vô thức phản ứng, người có ý thức đáp ứng. Người đó không có câu trả lời làm sẵn. Người đó đương đầu với tình huống, người đó phản xạ tình huống. Người đó chấp nhận thách thức của tình huống - và hành động tương ứng. Hành động của người đó sinh ra từ hiện tại.
Và nhớ một bí mật nền tảng của cuộc sống: Nếu hành động được sinh ra từ hiện tại nó không bao giờ trói buộc; nếu nó tới từ quá khứ nó là trói buộc, nó là nghiệp. Nếu hành động bắt nguồn từ nhận biết hiện tại của bạn nó không phải là trói buộc. Bạn làm nó và nó được kết thúc, bạn làm nó là bạn ra khỏi nó; nó chưa bao giờ tích luỹ trong bạn. Người chủ chưa bao giờ tích luỹ quá khứ; người đó chết đi mọi khoảnh khắc cho quá khứ. Người đó được sinh ra mới mọi khoảnh khắc.
Người chủ chịu đựng sỉ nhục và đối xử tệ không phản ứng.
Vì tâm linh của người chủ là quân đội.
Người đó không phản ứng. Sỉ nhục không thể xúc phạm được người đó, đối xử tệ chỉ đem tới từ bi của người đó, bởi vì người đó biết nhận biết của mình là thành trì, là chỗ trú ẩn không thể bị phá vỡ. Đó là bảo vệ tối thượng; người đó có an ninh tối thượng trong nhận biết của mình.
Người chủ không bao giờ giận.
Người chủ giữ lời hứa.
Người chủ không bao giờ lạc đường, người chủ quyết tâm.
Thân thể này là thân thể cuối cùng của ta, người chủ nói!
Như nước trên cánh của bông sen hay hạt mù tạc trên đầu kim,
Người chủ không níu bám.
Người đó không níu bám vào cái gì - thân, tâm hay cái ngã. Người đó không níu bám, người đó không còn đó để níu bám. Người đó là trống rỗng thuần khiết. Và từ trống rỗng thuần khiết đó nảy sinh hồn nhiên, từ trống rỗng thuần khiết đó nảy sinh tính thượng đế.
Vì người chủ đã đạt tới chỗ cuối của buồn khổ và đã hạ bỏ gánh nặng của mình.
Theo Phật gánh nặng duy nhất là cái ngã, bản ngã. Gạt gánh nặng sang bên và bạn tuyệt đối tự do. Ông ấy không nói về Thượng đế; ông ấy chỉ nói về gánh nặng, bản ngã. Gạt nó sang bên và bạn sẽ biết Thượng đế là gì. Không cần nói về Thượng đế; nói về Thượng đế là hoàn toàn vô tích sự. Ông ấy dứt khoát né tránh nói về Thượng đế; điều đó là vô dụng. Ông ấy cho bạn quyền đúng để kinh nghiệm tính thượng đế.
Bạn là thượng đế. Chỉ hạt mầm phải chết, cái ngã phải chết, và bạn sẽ bắt đầu trưởng thành. Trưởng thành đó là thiêng liêng. Tôn giáo là quá trình trưởng thành bên trong, quá trình thực tại hoá tiềm năng, quá trình được tái sinh. Chừng nào bạn còn chưa được sinh ra lần nữa bạn không thể đi vào trong vương quốc của Thượng đế.
Đủ cho hôm nay.