Khi giáo sĩ Bunam nằm chết, vợ ông ấy bật khóc nức nở.
Ông ấy nói, "Em khóc vì cái gì thế? Cả đời ta chỉ là điều ta có thể học cách chết."
Cuộc sống là đang trong việc sống. Nó không phải là vật, nó là quá trình. Không có cách nào để đạt tới cuộc sống ngoại trừ việc sống nó, ngoại trừ việc sống động, việc tuôn chảy, chảy đi cùng nó. Nếu bạn tìm kiếm nghĩa của cuộc sống trong giáo điều nào đó, trong triết học nào đó, trong thượng đế học nào đó, đó là con đường chắc chắn để bỏ lỡ cả hai cuộc sống và nghĩa.
Cuộc sống không ở đâu đó chờ đợi bạn, nó đang xảy ra trong bạn. Nó không ở trong tương lai như mục đích cần đạt tới, nó là ở đây bây giờ, chính khoảnh khắc này - trong việc thở của bạn, tuần hoàn máu của bạn, nhịp tim đập của bạn. Bất kì cái gì bạn đang là trong cuộc sống của mình, và nếu bạn bắt đầu tìm nghĩa ở đâu đó khác, bạn sẽ bỏ lỡ nó. Con người đã làm điều đó trong nhiều thế kỉ rồi.
Khái niệm đã trở thành rất quan trọng, giải thích đã trở thành rất quan trọng - và cái thực đã hoàn toàn bị quên lãng. Chúng ta không nhìn vào cái đã ở đây, chúng ta muốn hợp lí hoá.
Tôi đã nghe một câu chuyện rất hay.
Vài năm trước đây một người Mĩ bị khủng hoảng căn cước nghiêm trọng. Người đó tìm sự giúp đỡ từ các nhà tâm thần nhưng chẳng cái gì xảy ra từ đó, vì không ai có thể nói cho anh ta nghĩa của cuộc sống - chính là điều anh ta muốn biết. Dần dần anh ta biết tới một guru trí huệ vô cùng và đáng kính, người sống ở một vùng bí ẩn và gần như không tới đươc ở Himalaya. Chỉ guru đó, anh ta trở nên tin tưởng, mới cho anh ta biết được cuộc sống có nghĩa gì và vai trò của anh ta phải là gì trong đó. Thế là anh ta bán hết mọi của cải thế gian và bắt đầu tìm kiếm guru biết tất cả này. Anh ta mất tám năm lang thang từ làng nọ tới làng kia trên khắp Himalaya nỗ lực tìm ông ấy. Và thế rồi một hôm anh ta tình cờ gặp một người chăn cừu, người này bảo cho anh ta chỗ guru đó sống và cách đi tới chỗ đó.
Phải mất một năm mới tìm được ông ấy, nhưng thực tế anh ta đã làm điều đó. Quả có một guru, quả thực đáng kính, mà thực tế cũng đã tới một trăm tuổi. Guru này ưng thuận giúp anh ta, đặc biệt khi ông ấy biết về mọi hi sinh của anh ta vì mục đích này.
"Ta có thể làm được gì cho con đây?" guru hỏi.
"Tôi cần biết nghĩa của cuộc sống," người này nói.
Với điều này guru đáp ngay, không lưỡng lự, "Cuộc sống," ông ấy nói, "là dòng sông bất tận."
"Dòng sông bất tận sao?" người này nói trong giật mình thảng thốt. "Sau khi bằng mọi cách đi tìm thầy, và mọi điều thầy nói với tôi là ở chỗ cuộc sống là dòng sông bất tận sao?"
Guru bàng hoàng, choáng váng. Ông ấy trở nên rất giận và ông ấy nói, "Anh ngụ ý nó không phải vậy sao?"
Không ai có thể cho bạn nghĩa của cuộc sống của bạn. Cuộc sống là của bạn, nghĩa cũng phải là của bạn. Himalaya chẳng ích gì. Không ai ngoại trừ bạn có thể bắt gặp được nó. Cuộc sống là của bạn và chỉ bạn mới truy nhập được vào nó. Chỉ trong việc sống mà bí ẩn mới được khải lộ cho bạn.
Điều đầu tiên tôi muốn bảo bạn, đừng tìm nó ở đâu khác. Đừng tìm nó trong tôi, đừng kiếm nó trong kinh sách, đừng kiếm nó trong những giải thích tinh khôn - chúng tất cả đều giải thích đâu đâu, chúng không giải thích. Chúng đơn giản tọng vào tâm trí bạn, chúng không làm cho bạn nhận biết về cái gì đang đó. Và tâm trí càng được tọng nhiều với những tri thức chết, bạn càng trở nên đờ đẫn và ngu hơn. Tri thức làm mọi người ngu đi; nó làm đờ đẫn nhạy cảm của họ. Nó tọng vào họ, nó trở thành trọng lượng đè lên họ, nó làm mạnh cho bản ngã của họ nhưng nó không cho ánh sáng và nó không chỉ cho họ con đường. Đó là điều không thể được.
Cuộc sống đã có đó sùng sục bên trong bạn. Nó có thể được tiếp xúc chỉ ở đó. Ngôi đền không ở bên ngoài, bạn là điện thờ của nó. Cho nên điều đầu tiên cần nhớ nếu bạn muốn biết cuộc sống là gì, chính là: đừng bao giờ tìm kiếm nó ở bên ngoài, đừng bao giờ thử tìm nó từ ai đó khác. Nghĩa không thể được truyền theo cách đó. Những bậc thầy vĩ đại nhất chưa bao giờ nói điều gì về cuộc sống cả - họ bao giờ cũng ném bạn trở lại bản thân bạn.
Điều thứ hai cần nhớ là: một khi bạn biết sống là gì, bạn sẽ biết chết là gì. Chết cũng là một phần của quá trình. Bình thường chúng ta nghĩ chết tới ở lúc cuối, bình thường chúng ta nghĩ chết là chống lại sống, bình thường chúng ta nghĩ chết như kẻ thù, nhưng chết không phải là kẻ thù. Và nếu bạn nghĩ chết như kẻ thù, điều đó đơn giản chứng tỏ rằng bạn đã không có khả năng biết sống là gì.
Chết và sống là hai cực của cùng một năng lượng, của cùng một hiện tượng - sóng lên và triều xuống, ngày và đêm, mùa hè và mùa đông. Chúng không tách rời và không đối lập, không mâu thuẫn; chúng là phần bù. Chết không phải là đầu cuối của cuộc sống; thực tế, nó là phần bổ sung của một kiếp sống, là cao trào của một kiếp sống, là đỉnh cao, cực đỉnh. Và một khi bạn biết cuộc sống của mình và quá trình của nó, thế thì bạn hiểu chết là gì.
Chết là một phần hữu cơ, tích hợp của sống, và nó rất thân thiện với cuộc sống. Không có nó cuộc sống không thể tồn tại được. Cuộc sống tồn tại bởi vì cái chết; cái chết cho bối cảnh. Thực tế chết là quá trình làm mới lại. Và chết xảy ra từng khoảnh khắc. Khoảnh khắc bạn hít vào và khoảnh khắc bạn thở ra, cả hai đều xảy ra. Hít vào, sống xảy ra; thở ra, chết xảy ra. Đó là lí do tại sao khi đứa trẻ được sinh ra điều đầu tiên nó làm là hít vào, thế thì cuộc sống bắt đầu. Và khi người già chết đi, điều cuối cùng người đó làm là thở ra, thế thì cuộc sống ra đi. Thở ra là chết, hít vào là sống - chúng giống như hai bánh xe của chiếc xe bò. Bạn sống bằng hít vào cũng nhiều như bạn sống bằng thở ra. Việc thở ra là một phần của hít vào. Bạn không thể hít vào nếu bạn dừng thở ra. Bạn không thể sống nếu bạn dừng chết. Người đã hiểu cuộc sống của mình là gì thì cho phép cái chết xảy ra; người đó đón chào nó. Người đó chết đi từng khoảnh khắc và từng khoảnh khắc người đó phục sinh. Chữ thập của người đó và việc phục sinh của người đó liên tục xảy ra như một quá trình. Người đó chết đi quá khứ từng khoảnh khắc và người đó được sinh ra lặp đi lặp lại trong tương lai.
Nếu bạn nhìn vào trong cuộc sống bạn sẽ có khả năng biết cái chết là gì. Nếu bạn hiểu chết là gì, chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu sống là gì. Chúng là hữu cơ. Bình thường, do sợ hãi, chúng ta đã tạo ra phân chia. Chúng ta nghĩ rằng sống là tốt và chết là xấu. Chúng ta nghĩ rằng sống phải được mong muốn và chết phải được né tránh. Chúng ta nghĩ bằng cách nào đó chúng ta phải bảo vệ bản thân mình chống lại cái chết. Ý tưởng ngớ ngẩn này đã tạo ra vô tận khổ sở trong các kiếp sống của chúng ta, bởi vì người bảo vệ bản thân mình chống lại cái chết thì không có khả năng sống. Người đó là người sợ thở ra, thế thì người đó không thể hít vào được và người đó bị mắc kẹt. Thế thì người đó đơn giản kéo lê; cuộc sống của người đó không còn là dòng chảy, cuộc sống của người đó không còn là dòng sông.
Nếu bạn thực sự muốn sống bạn phải sẵn sàng chết. Ai sợ chết trong bạn? Sống có sợ chết không? Điều đó là không thể được. Làm sao cuộc sống có thể sợ quá trình tích hợp của riêng nó được? Cái gì đó khác sợ trong bạn. Bản ngã đang sợ trong bạn. Sống và chết không phải là đối lập; bản ngã và chết mới là đối lập. Bản ngã chống lại cả sống và chết. Bản ngã sợ sống và bản ngã sợ chết. Nó sợ sống bởi vì từng nỗ lực, từng bước tới sống, đều đem chết tới gần hơn.
Nếu bạn sống bạn đang đi gần hơn tới việc chết. Bản ngã sợ chết, do đó nó sợ cả sống nữa. Bản ngã đơn giản kéo lê.
Có nhiều người không sống không chết. Điều này còn tồi tệ hơn bất kì cái gì. Người tràn đầy sống động thì tràn đầy cái chết nữa. Đó là nghĩa của Jesus trên cây thập tự. Jesus mang cây thập tự riêng của mình đã không được mọi người thực sự hiểu. Và ông ấy nói với đệ tử của mình, "Các ông sẽ phải mang cây thập tự riêng của mình." Nghĩa của Jesus mang cây thập tự riêng của mình là rất đơn giản, chẳng có gì ngoài điều này: mọi người đều phải mang cái chết của mình liên tục, mọi người đều phải chết đi từng khoảnh khắc, mọi người đều phải trên cây thập tự bởi vì đó là cách duy nhất để sống đầy đủ, toàn bộ.
Bất kì khi nào bạn đi tới một khoảnh khắc sống động toàn bộ, bỗng nhiên bạn sẽ thấy cái chết cũng có đó. Trong yêu nó xảy ra. Trong yêu, cuộc sống đi tới cực đỉnh - do đó mọi người đều sợ yêu.
Tôi đã từng liên tục ngạc nhiên bởi những người tới tôi và nói họ sợ yêu. Sợ yêu là gì? Đó là vì khi bạn thực sự yêu ai đó bản ngã của bạn bắt đầu tuột đi và tan chảy ra. Bạn không thể yêu bằng bản ngã được; bản ngã trở thành rào chắn. Và khi bạn muốn vứt bỏ rào chắn này bản ngã nói, "Đây sẽ là cái chết. Phải cẩn thận!"
Cái chết của bản ngã không phải là cái chết của bạn. Cái chết của bản ngã thực sự là khả năng sống của bạn. Bản ngã chỉ là cái vỏ chết bao quanh bạn, nó phải bị đập vỡ và vứt đi. Nó đi vào trong hiện hữu một cách tự nhiên - hệt như lữ khách đi qua, bụi tụ lại trên quần áo người đó, trên thân thể người đó, và người đó phải tắm để vứt bỏ bụi đi.
Khi chúng ta đi vào trong thời gian, bụi của kinh nghiệm, của tri thức, của kiếp sống đã sống qua, của quá khứ, tụ lại. Bụi đó trở thành bản ngã của chúng ta. Được tích luỹ lại, nó trở thành lớp vỏ bao quanh bạn, cái phải bị đập vỡ ra và vứt đi. Người ta phải tắm liên tục - mọi ngày, thực tế mọi khoảnh khắc, để cho lớp vỏ này không bao giờ trở thành nhà tù. Bản ngã sợ yêu bởi vì trong yêu, cuộc sống đi tới đỉnh. Nhưng bất kì khi nào có đỉnh của cuộc sống thì cũng có đỉnh của cái chết - chúng đi cùng nhau.
Trong yêu bạn chết đi và bạn được tái sinh. Cùng điều đó xảy ra khi bạn đi tới thiền hay cầu nguyện, hay khi bạn đi tới thầy để buông xuôi. Bản ngã tạo ra đủ mọi loại khó khăn, hợp lí hoá để không buông xuôi: "Nghĩ về điều đó đi, nghiền ngẫm về nó đi, khôn ngoan về nó đi." Khi bạn đi tới thầy, lần nữa bản ngã lại trở nên nghi ngờ, hoài nghi, tạo ra lo âu, bởi vì bạn lại đang đi tới cuộc sống, tới ngọn lửa nơi cái chết cũng sống động như cuộc sống.
Để điều đó được ghi nhớ, rằng chết và sống cả hai đều trở thành ngọn lửa cùng nhau, chúng chưa bao giờ tách rời. Nếu bạn sống rất, rất tối thiểu, tại mức ít nhất, thế thì bạn có thể thấy chết và sống như tách rời. Bạn càng tới gần đỉnh, chúng càng bắt đầu lại gần nhau hơn. Tại chính chóp chúng gặp gỡ và trở thành một. Trong yêu, trong thiền, trong tin cậy, trong lời cầu nguyện, bất kì chỗ nào sống trở thành toàn bộ, chết đều có đó. Không có chết, sống không thể trở thành toàn bộ được.
Nhưng bản ngã bao giờ cũng nghĩ trong phân chia, trong nhị nguyên; nó phân chia mọi thứ. Sự tồn tại là không thể phân chia được; nó không thể được phân chia. Bạn đã là đứa trẻ, rồi bạn trở thành thanh niên. Bạn có thể vạch lằn ranh khi bạn trở thành thanh niên được không? Bạn có thể vạch ra điểm theo thời gian nơi bỗng nhiên bạn không còn là đứa trẻ và bạn đã trở thành thanh niên được không? Một ngày nào đó bạn trở nên già. Bạn có thể vạch ra đường biên khi nào bạn trở nên già được không?
Quá trình không thể được phân ranh giới. Đích xác cùng điều đó xảy ra khi bạn được sinh ra. Bạn có thể vạch ranh giới khi nào bạn được sinh ra không? Khi nào cuộc sống thực sự bắt đầu? Nó có bắt đầu khi đứa trẻ bắt đầu thở không - bác sĩ phát vào đít đứa trẻ và đứa trẻ bắt đầu thở? Thế thì cuộc sống được sinh ra sao? Hay đó là khi đứa trẻ đi vào bụng mẹ, khi người mẹ trở nên mang thai, khi đứa trẻ được thụ thai? Cuộc sống có bắt đầu từ đó không? Hay thậm chí trước đó? Khi nào cuộc sống đích xác bắt đầu?
Nó là quá trình không kết thúc và không bắt đầu. Nó chưa bao giờ bắt đầu. Khi nào một người chết? Có phải người chết khi việc thở dừng lại không? Nhiều nhà yoga bây giờ đã chứng minh trên nền tảng khoa học rằng họ có thể dừng thở và họ vẫn sống và họ có thể quay lại. Cho nên dừng thở không thể là cái kết thúc được. Cuộc sống kết thúc ở đâu?
Nó chưa bao giờ kết thúc ở đâu cả, nó chưa bao giờ bắt đầu ở đâu cả. Chúng ta được tham gia vào cái vĩnh hằng. Chúng ta đã ở đây từ chính lúc bắt đầu - nếu như có cái bắt đầu - và chúng ta sẽ ở đây tới chính kết thúc - nếu có chỗ kết thúc. Thực tế không thể có cái bắt đầu nào và không thể có cái kết thúc nào. Chúng ta là cuộc sống - cho dù hình dạng thay đổi, thân thể thay đổi, tâm trí thay đổi. Điều chúng ta gọi là cuộc sống chỉ là sự đồng nhất với thân thể nào đó, với tâm trí nào đó, với thái độ nào đó, và điều chúng ta gọi là cái chết thì không là gì ngoài việc thoát ra khỏi hình dạng đó, ra khỏi thân thể đó, ra khỏi quan niệm đó.
Bạn đổi nhà. Nếu bạn bị quá đồng nhất với ngôi nhà này, thế thì đổi nhà sẽ rất đau đớn. Bạn sẽ nghĩ rằng bạn đang chết bởi vì ngôi nhà cũ đã là cái bạn là - đó là sự đồng nhất của bạn. Nhưng điều này không xảy ra, bởi vì bạn biết rằng bạn chỉ đổi nhà, bạn vẫn còn như cũ. Những người đã nhìn vào bên trong mình, những người đã tìm thấy mình là ai, đều đi tới biết cái vĩnh hằng, quá trình không kết thúc. Sống là quá trình, vô thời gian, bên ngoài thời gian. Chết là một phần của nó.
Chết là sự phục hồi liên tục: giúp đỡ cho sống phục sinh lặp đi lặp lại, giúp đỡ cho sống loại bỏ các hình dạng cũ, loại bỏ những toà nhà đổ nát, loại bỏ những cấu trúc giới hạn cũ rích để cho bạn lại có thể tuôn chảy và bạn lại có thể trở nên tươi tắn và trẻ trung, và bạn lại có thể trở thành trong trắng.
Tôi đã nghe...
Một người đang duyệt xem cửa hàng đồ cổ gần Mount Vernon và tình cờ bắt gặp một chiếc rìu phần nào trông hơi cổ.
"Đó là chiếc rìu cổ lắm ông có đấy," ông ta nói với chủ tiệm
"Vâng," người này nói, "nó có thời đã thuộc về George Washington đấy."
"Thật thế à?" khách hàng nói. "Nó chắc chắn còn ở đây lâu."
"Tất nhiên rồi," ông chủ hàng đồ cổ nói, "nó có ba chuôi mới và hai đường gân hạt mới."
Nhưng đó là cách cuộc sống đang vậy - nó cứ thay đổi chuôi và đường gân hạt; thực tế, dường như là mọi thứ đều cứ thay đổi và vậy mà cái gì đó vẫn còn vĩnh hằng như cũ. Bạn đã là đứa trẻ - cái gì của điều đó bây giờ vẫn còn lại? Chỉ là kí ức. Thân thể bạn đã thay đổi, tâm trí bạn đã thay đổi, căn cước bạn đã thay đổi.
Cái gì từ thời thơ ấu của bạn còn lại? Chẳng cái gì còn lại cả, chỉ kí ức. Bạn không thể phân biệt được giữa việc liệu nó đã thực xảy ra, hay bạn thấy trong mơ, hay bạn đọc nó trong sách, hay ai đó nói với bạn về nó. Thời thơ ấu đó là của bạn hay của ai đó khác? Đôi khi xem cuốn an bum ảnh cũ đi. Cứ nhìn, đây đã là bạn. Bạn sẽ không thể tin được vào nó, bạn đã thay đổi nhiều thế. Thực tế mọi thứ đã thay đổi - chuôi kiếm và đường gân hạt và mọi thứ. Nhưng dầu vậy, sâu bên dưới, ở đâu đó, cái gì đó vẫn còn là sự liên tục; việc chứng kiến vẫn còn liên tục.
Có luồng mạch, dù thế nào vẫn vô hình. Và mọi thứ cứ thay đổi nhưng mạch vô hình đó vẫn còn như thế. Mạch đó là ở bên ngoài sống và chết. Sống và chết là hai cánh cho cái ở bên ngoài sống và chết. Cái ở bên ngoài đó cứ dùng sống và chết như hai bánh xe của chiếc xe bò, bổ sung nhau. Nó sống qua cuộc sống; nó sống qua cái chết. Chết và sống là các quá trình của nó, giống như hít vào và thở ra.
Nhưng cái gì đó trong bạn là siêu việt. Cái đó là ngươi ... cái siêu việt.
Nhưng chúng ta quá bị đồng nhất với hình dạng - điều đó tạo ra bản ngã. Điều đó chúng ta gọi là "tôi." Tất nhiên "tôi" phải chết nhiều lần. Cho nên nó thường xuyên trong sợ hãi, run rẩy, lẩy bẩy, luôn luôn sợ sệt, bảo vệ, an ninh.
Một nhà huyền môn Sufi gõ cửa nhà một người rất giầu. Ông ta là người ăn xin và ông ta chẳng muốn gì ngoài việc có đủ bữa ăn.
Người giầu quát ông ta và nói, "Chẳng ai biết ông ở đây!"
"Nhưng tôi biết bản thân mình," thầy tu nói. "Thật đáng buồn làm sao nếu điều ngược lại mà đúng. Nếu mọi người đều biết tôi nhưng tôi lại không nhận biết mình là ai, điều đó buồn làm sao. Vâng, ông đúng, chẳng ai biết tôi cả, nhưng tôi thì biết bản thân mình."
Chỉ có hai tình huống có thể có, và bạn ở trong tình huống buồn đó. Mọi người có thể biết về bạn - bạn là ai - nhưng bản thân bạn hoàn toàn quên lãng về sự siêu việt của mình, về bản tính thực của mình, về con người đích thực của mình. Đây là nỗi buồn duy nhất trong cuộc sống. Bạn có thể tìm ra nhiều cớ, nhưng nỗi buồn thực là thế này: bạn không biết mình là ai.
Làm sao một người có thể hạnh phúc khi không biết mình là ai, không biết mình tới từ đâu, không biết mình đi đâu? Cả nghìn lẻ một vấn đề nảy sinh bởi vì dốt nát căn bản về bản thân mình này.
Một đàn kiến chui lên từ chỗ tối tăm trong tổ ngầm dưới đất để kiếm thức ăn. Lúc đó là sáng sớm. Lũ kiến tình cờ đi qua một cái cây có lá bị phủ đầy bởi những giọt sương sáng.
"Cái gì thế này?" một con kiến hỏi, vừa trỏ lên giọt sương. "Chúng từ đâu tới?"
Một con nào đó nói, "Chúng tới từ đất."
Con khác nói, "Chúng tới từ biển."
Chẳng mấy chốc cãi nhau bùng ra - nhóm bám chặt với lí thuyết biển, và nhóm gắn mình với lí thuyết đất.
Mỗi một con, con kiến thông minh và trí huệ, đứng một mình. Nó nói, "Chúng ta hãy dừng lại một chút và nhìn quanh tìm dấu hiệu, vì mọi thứ đều có sự hấp dẫn về nguồn của nó. Và, như mọi người vẫn nói, mọi thứ đều trở về cội nguồn của nó. Dù các bạn có ném hòn gạch đi bao xa trong không trung nó vẫn quay lại đất thôi. Bất kì cái gì thiên về ánh sáng, về nguồn gốc đều phải là của ánh sánh."
Các con kiến không hoàn toàn bị thuyết phục và vẫn trở lại tranh cãi, nhưng mặt trời đã lên và những giọt sương rời khỏi lá, bay lên, hướng lên mặt trời và biến mất trong nó.
Mọi thứ đều trở về cội nguồn của nó, phải trở về cội nguồn của nó. Nếu bạn hiểu sống thì bạn hiểu chết nữa. Sống là quên lãng về cội nguồn, và chết là nhớ lại. Sống đi xa khỏi cội nguồn, chết quay về nhà. Chết không xấu, chết là đẹp. Nhưng chết đẹp chỉ cho những người đã sống cuộc sống của mình không bị cản trở, không bị cấm đoán, không bị đàn áp. Chết là đẹp chỉ cho những người đã sống cuộc sống của mình một cách đẹp đẽ, người đã không sợ sống, người đã đủ dũng cảm để sống - người đã yêu, người đã nhảy múa, người đã mở hội.
Chết trở thành lễ hội tối thượng nếu sống của bạn là lễ hội. Để tôi nói với bạn theo cách này: dù sống của bạn là bất kì cái gì, chết đều làm lộ nó ra. Nếu bạn đã khổ trong sống, chết để lộ khổ. Chết là kẻ để lộ lớn lao. Nếu bạn đã hạnh phúc trong cuộc sống của mình, chết để lộ hạnh phúc. Nếu bạn đã sống chỉ cuộc sống thoải mái về vật lí và vui thú vật lí, thế thì tất nhiên, chết sẽ rất không thoải mái và rất không dễ chịu, bởi vì thân thể phải bị bỏ lại. Thân thể chỉ là chỗ trú ngụ tạm thời, điện thờ mà trong đó chúng ta ngụ lại qua đêm và ra đi lúc sáng. Nó không phải là chỗ trú ngụ vĩnh viễn, nó không phải là nhà bạn.
Cho nên, nếu bạn đã sống chỉ trong cuộc sống thân thể và bạn chưa bao giờ biết tới cái gì bên ngoài thân thể, chết sẽ là rất, rất xấu, không thoải mái, đau đớn. Chết sẽ là phiền não. Nhưng nếu bạn đã sống một chút ít cao hơn thân thể, nếu bạn đã yêu âm nhạc và thơ ca, và bạn đã yêu, và bạn đã nhìn vào hoa và các vì sao và cái gì đó của phi vật lí đã đi vào trong tâm thức của bạn, chết sẽ không xấu thế, chết sẽ không đau thế. Bạn có thể nhận nó với sự thanh thản, nhưng dầu vậy nó không thể là lễ hội được.
Nếu bạn đã chạm tới cái gì đó của siêu việt trong bản thân mình, nếu bạn đã đi vào cái không riêng của mình tại trung tâm - trung tâm bản thể bạn, nơi bạn không còn là thân thể và không còn là tâm trí, nơi vui thú vật lí hoàn toàn bị bỏ lại xa xăm và vui thích tinh thần như âm nhạc và thơ ca và văn học và hội hoạ, mọi thứ, cũng bị bỏ lại nơi xa xăm, bạn đơn giản chỉ là nhận biết, tâm thức - thế thì cái chết sẽ là lễ hội lớn, hiểu biết lớn, khải lộ lớn.
Nếu bạn đã biết cái gì đó của siêu việt trong mình, cái chết sẽ khải lộ cho bạn điều siêu việt trong vũ trụ - thế thì cái chết không còn là cái chết mà là gặp gỡ với Thượng đế, hẹn hò với Thượng đế.
Cho nên bạn có thể thấy ba cách diễn đạt về cái chết trong lịch sử tâm trí nhân loại.
Một cách diễn đạt là của người thường, người sống bị gắn bó với thân thể mình, người chưa bao giờ biết cái gì lớn hơn vui thú của thức ăn và dục, người có cả đời không là gì ngoài thức ăn và dục, người đã tận hưởng thức ăn, đã tận hưởng dục, người có cả đời sống rất nguyên thuỷ, cả đời sống rất thô thiển, người đã sống trong cổng vòm của lâu đài, chưa bao giờ đi vào trong lâu đài, và người đã từng nghĩ rằng đây là tất cả cuộc sống. Vào khoảnh khắc chết người đó sẽ cố gắng níu bám. Người đó sẽ chống lại cái chết, người đó sẽ tranh đấu với cái chết. Cái chết sẽ tới như kẻ thù.
Do đó, trên khắp thế giới, trong mọi xã hội, cái chết được mô tả như đen tối, như ác độc. Ở Ấn Độ họ nói rằng sứ giả của cái chết là rất xấu - tối, đen - và người đó tới ngồi trên con trâu rất xấu. Đây là thái độ thông thường. Những người này đã bỏ lỡ, họ đã không có khả năng biết tất cả các chiều của cuộc sống. Họ đã không có khả năng chạm tới chiều sâu của cuộc sống và họ đã không có khả năng bay lên những chiều cao của cuộc sống. Họ bỏ lỡ sự phong phú, họ bỏ lỡ phúc lành.
Thế rồi có kiểu diễn đạt thứ hai. Nhà thơ, triết gia đôi khi đã nói rằng cái chết không phải là cái gì xấu, cái chết không phải là cái gì ác, nó chỉ là nghỉ ngơi - việc nghỉ ngơi lớn lao, như giấc ngủ. Điều này tốt hơn cách diễn đạt thứ nhất. Ít nhất những người này đã biết cái gì đó bên ngoài thân thể, họ đã biết cái gì đó của tâm trí. Họ đã không chỉ có thức ăn và dục, cả đời họ đã không chỉ trong ăn và sinh sản. Họ có phức tạp hơn chút ít của linh hồn, họ có thêm chút ít tính quí tộc, có văn hoá hơn. Họ nói chết giống như nghỉ lớn lao; người ta mệt mỏi và người ta đi vào trong cái chết và nghỉ ngơi. Nó là nghỉ ngơi. Nhưng họ nữa cũng quá xa xăm với chân lí.
Những người đã biết tới cuộc sống trong cốt lõi sâu nhất của nó, họ nói rằng chết là Thượng đế. Nó không chỉ là nghỉ ngơi mà là phục sinh, cuộc sống mới, sự bắt đầu mới; cánh cửa mới mở ra.
Khi nhà huyền môn Sufi Bayazid sắp chết, những người tụ tập quanh ông ấy - các đệ tử của ông ấy - bỗng nhiên ngạc nhiên, bởi vì khi khoảnh khắc cuối tới khuôn mặt ông ấy rạng ngời, toả sáng mạnh mẽ. Nó có hào quanh đẹp. Bayazid là người đẹp, và đệ tử của ông ấy bao giờ cũng cảm thấy hào quang quanh ông ấy, nhưng họ đã không biết cái gì giống điều này, toả sáng thế.
Họ hỏi, "Bayazid, xin hãy nói cho chúng tôi điều gì đã xảy ra với thầy. Điều gì đang xảy ra cho thầy? Trước khi thầy rời bỏ chúng tôi, hãy cho chúng tôi thông điệp cuối cùng của thầy."
Ông ấy mở mắt ra và ông ấy nói, "Thượng đế đang đón chào ta. Ta sắp đi vào vòng tay của ngài. Tạm biệt."
Ông ấy nhắm mắt lại, hơi thở của ông ấy dừng lại. Nhưng vào khoảnh khắc hơi thở ông ấy dừng lại có sự bùng nổ của ánh sáng, căn phòng trở nên đầy ánh sáng, và thế rồi nó biến mất.
Khi một người đã biết tới cái siêu việt bên trong mình, cái chết không là gì ngoài khuôn mặt khác của Thượng đế. Thế thì cái chết có điệu vũ trong nó. Và chừng nào bạn còn chưa trở nên có khả năng mở hội bản thân cái chết, nhớ lấy, bạn đã bỏ lỡ cuộc sống. Toàn thể cuộc sống là sự chuẩn bị cho điều tối thượng này.
Đây là nghĩa của câu chuyện hay này.
Khi giáo sĩ Bunam nằm chết, vợ ông ấy bật khóc nức nở.
Ông ấy nói, "Em khóc vì cái gì thế? Cả đời ta chỉ là điều ta có thể học cách chết."
Cả đời ông ấy đã chỉ là sự chuẩn bị, chuẩn bị để học các bí mật của việc chết.
Mọi tôn giáo đều không là gì ngoài khoa học - hay nghệ thuật - để dạy bạn cách chết. Và cách duy nhất để dạy bạn cách chết là dạy bạn cách sống. Chúng không tách rời. Nếu bạn biết sống đúng là gì, bạn sẽ biết chết đúng là gì.
Cho nên điều đầu tiên, hay điều nền tảng nhất là: sống thế nào.
Để tôi kể cho bạn vài điều. Thứ nhất: cuộc sống của bạn là cuộc sống của bạn, nó không phải là của ai khác cả. Cho nên đừng cho phép bản thân mình bị chi phối bởi người khác, đừng cho phép bản thân mình bị chỉ đạo bởi người khác, đó là phản bội cuộc sống. Nếu bạn cho phép bản thân mình bị chỉ đạo bởi người khác - có thể là bố mẹ bạn, xã hội, hệ thống giáo dục, các chính khách, các tu sĩ, dù họ là bất kì ai - nếu bạn cho phép bản thân mình bị chi phối bởi người khác, bạn sẽ bỏ lỡ cuộc sống của mình. Bởi vì chi phối tới từ bên ngoài còn cuộc sống là ở bên trong bạn. Chúng không bao giờ gặp gỡ.
Tôi không nói rằng bạn phải trở thành người nói không cho từng và mọi thứ. Điều đó nữa cũng chẳng giúp ích gì mấy. Có hai kiểu người. Một kiểu là kiểu vâng lời, sẵn sàng buông xuôi theo bất kì ai và mọi người. Họ không có linh hồn độc lập trong họ; họ chưa chín chắn, còn ngây thơ, bao giờ cũng tìm hình ảnh người cha, tìm ai đó để nói cho họ cái gì cần làm và cái gì không làm. Họ không có khả năng tin cậy vào con người riêng của họ. Những người này chiếm phần lớn hơn trên thế giới, là đám đông.
Thế rồi ngược lại những người này, còn có một số nhỏ những người bác bỏ xã hội, người bác bỏ các giá trị của xã hội. Họ nghĩ họ có tính nổi dậy. Họ không phải vậy, họ chỉ là kẻ phản động. Bởi vì bất kì khi nào bạn nghe xã hội hay bạn bác bỏ xã hội, nếu xã hội vẫn còn là nhân tố xác định trong cả hai cách này, thế thì bạn vẫn bị xã hội chi phối.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại.
Một lần Mulla Nasruddin đi xa một thời gian và trở về thị trấn mang theo bộ râu dài. Bạn bè của anh ta tự nhiên trêu chọc anh ta về bộ râu đó và hỏi anh ta làm sao anh ta tình cờ mà lại để râu. Mulla vẫn để râu bắt đầu phàn nàn và nguyền rủa bộ râu này một cách quả quyết. Bạn anh ta sững sờ về cách anh ta nói và hỏi anh ta sao anh ta vẫn cứ để râu nếu anh ta không thích nó.
"Tôi ghét cái thứ đáng nguyền rủa này!" Mulla nói với họ.
"Nếu anh ghét nó, thế thì sao anh không cạo nó và bỏ nó đi?" một trong những người bạn anh ta hỏi.
Một tia sáng gian manh loé lên trong mắt Mulla khi anh ta trả lời, "Bởi vì vợ tôi ghét điều đó nữa!"
Nhưng điều đó không làm cho bạn tự do. Kẻ hippy, kẻ cãi lại và những người khác, họ không thực sự là người nổi dậy, họ là kẻ phản động. Họ đã phản ứng chống lại xã hội. Vài người vâng lời, vài người không vâng lời, nhưng trung tâm của việc chi phối vẫn là như nhau. Vài người tuân lệnh, và người bất tuân lệnh, nhưng không ai nhìn vào linh hồn mình.
Người nổi dậy thực sự là người không ủng hộ xã hội, không chống đối xã hội, người đơn giản sống cuộc sống của mình theo hiểu biết riêng của mình. Dù nó đi ngược xã hội hay nó đi cùng xã hội cũng đều không phải là điều xem xét, đều không liên quan. Đôi khi nó có thể đi cùng xã hội, đôi khi nó có thể không đi cùng xã hội, nhưng đó không phải là vấn đề được xem xét. Người đó sống theo hiểu biết của mình, theo ánh sáng nhỏ của mình. Và tôi không nói rằng người đó trở thành rất bản ngã về điều đó. Không, người đó rất khiêm tốn. Người đó biết rằng ánh sáng của mình là rất nhỏ, nhưng đó là tất cả ánh sáng có đó. Người đó không phải là cứng rắn, người đó rất khiêm tốn. Người đó nói, "Tôi có thể sai, nhưng xin cho phép tôi sai tương ứng với bản thân tôi."
Đó là cách duy nhất để học. Phạm sai lầm là cách duy nhất để học. Đi theo hiểu biết riêng của người ta là cách duy nhất để trưởng thành và trở nên chín chắn. Nếu bạn bao giờ cũng nhìn vào ai đó để chỉ bảo bạn, dù bạn vâng lời hay không vâng lời cũng không tạo ra khác biệt gì. Nếu bạn nhìn vào ai đó khác để chỉ bảo bạn, để quyết định ủng hộ hay chống đối, bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết cuộc sống của mình là gì. Nó phải được sống, và bạn phải đi theo ánh sáng nhỏ bé của mình.
Không phải bao giờ cũng chắc chắn về điều cần làm. Bạn rất lẫn lộn. Cứ để điều đó là vậy đi. Nhưng tìm ra cách thoát khỏi lẫn lộn của bạn. Nghe theo người khác thì rất rẻ và dễ dàng bởi vì họ có thể trao cho bạn những giáo điều chết, họ có thể cho bạn những lời răn - làm cái này, không làm cái kia. Và họ rất chắn chắn về những lời răn của họ. Điều chắc chắn không nên được tìm kiếm; hiểu biết nên được tìm kiếm. Nếu bạn tìm kiếm điều chắc chắn bạn sẽ trở thành nạn nhân của cái bẫy nào đó này khác. Đừng tìm chắc chắn, tìm hiểu biết. Chắc chắn có thể được trao cho bạn rẻ rúng, bất kì ai cũng có thể trao nó cho bạn được. Nhưng trong phân tích cuối cùng bạn sẽ là người mất. Bạn làm mất cuộc sống của mình chỉ để vẫn còn an ninh và chắc chắn, còn cuộc sống là không chắc chắn, cuộc sống là không an ninh.
Cuộc sống là không an ninh. Từng khoảnh khắc đều đi vào ngày một nhiều bất an hơn. Nó là đánh bạc. Người ta chưa bao giờ biết cái gì sẽ xảy ra. Và điều hay là người ta chưa bao giờ biết được. Nếu như nó là dự đoán được, cuộc sống sẽ không đáng sống. Nếu mọi thứ đều như bạn muốn nó là, và mọi thứ đều chắc chắn, bạn sẽ không phải là người chút nào, bạn sẽ là máy. Chỉ với máy mọi sự mới an ninh và chắc chắn.
Con người sống trong tự do. Tự do cần không an ninh và không chắc chắn. Con người thực của thông minh bao giờ cũng không nhất quyết bởi vì người đó không có giáo điều để dựa vào, để học. Người đó phải nhìn và đáp ứng.
Lão Tử nói, "Ta do dự, và ta đi một cách tỉnh táo trong cuộc sống bởi vì ta không biết cái gì sẽ xảy ra. Và ta không có nguyên tắc nào để theo. Ta phải quyết định mọi khoảnh khắc. Ta chưa bao giờ quyết định trước cả. Ta phải quyết định khi khoảnh khắc tới!"
Thế thì người ta phải rất có tính đáp ứng. Đó chính là tính đáp ứng. Đáp ứng không phải là bắt buộc, đáp ứng không phải là nghĩa vụ - nó là khả năng đáp ứng. Người muốn biết cuộc sống là gì phải có tính đáp ứng. Điều đó đang bị bỏ lỡ. Hàng thế kỉ ước định đã làm cho bạn giống máy nhiều hơn. Bạn đã đánh mất tính người của mình, bạn đã giao kèo vì an ninh. Bạn an ninh và thoải mái và mọi thứ đã được lập kế hoạch bởi người khác. Và họ đã đặt mọi thứ lên bản đồ, họ đã đo mọi thứ. Điều này tất cả tuyệt đối ngu xuẩn bởi vì cuộc sống không thể được đo, nó là không thể đo được.
Và không bản đồ nào là có thể bởi vì cuộc sống ở trong luồng chảy thường hằng. Mọi thứ cứ thay đổi. Không cái gì thường hằng ngoại trừ thay đổi. Heraclitus nói, "Ông không thể bước vào cùng một dòng sông hai lần."
Và cách thức của cuộc sống là rất dích dắc. Cách thức của cuộc sống không giống đường ray xe lửa. Không, nó không chạy theo rãnh. Và đó là cái đẹp của nó, huy hoàng của nó, thơ ca của nó, âm nhạc của nó - rằng nó bao giờ cũng là điều ngạc nhiên.
Nếu bạn tìm kiếm an ninh, chắc chắn, mắt bạn sẽ trở nên bị khép lại. Và bạn sẽ ngày càng ít ngạc nhiên hơn và bạn sẽ đánh mất năng lực ngạc nhiên. Một khi bạn mất năng lực ngạc nhiên, bạn đã đánh mất tôn giáo. Tôn giáo là việc mở ra trái tim ngạc nhiên của bạn. Tôn giáo là cảm nhận về điều bí ẩn bao quanh chúng ta.
Đừng tìm an ninh; đừng tìm lời khuyên về cách sống cuộc sống của bạn. Mọi người tới tôi và họ nói, "Osho ơi, nói xem chúng tôi nên sống cuộc sống của mình thế nào." Bạn không quan tâm tới việc biết cuộc sống là gì, bạn quan tâm nhiều tới việc làm ra hình mẫu cố định. Bạn quan tâm nhiều tới việc giết cuộc sống hơn việc sống nó. Bạn muốn có kỉ luật được áp đặt lên bạn.
Tất nhiên có các tu sĩ và chính khách trên khắp thế giới, những người đã sẵn sàng; chỉ ngồi đợi bạn thôi. Tới với họ và họ sẵn sàng áp đặt kỉ luật của họ cho bạn. Họ tận hưởng quyền lực tới qua việc áp đặt ý tưởng riêng của họ lên người khác.
Tôi không ở đây để làm điều đó. Tôi ở đây để giúp bạn trở nên tự do. Và khi tôi nói rằng tôi ở đây để giúp bạn trở nên tự do, tôi cũng được bao hàm. Tôi định giúp bạn trở nên tự do cả với tôi nữa. Tôi chấp nhận bạn và điểm đạo cho bạn vào tính chất sannyas để giúp bạn trở nên tuyệt đối tự do với mọi giáo điều, với mọi kinh sách, với mọi triết học - và tôi cũng được bao hàm trong điều đó. Tính chất sannyas là nghịch lí - nó phải vậy - như bản thân cuộc sống vậy. Thế thì nó sống động.
Cho nên điều đầu tiên là, đừng hỏi bất kì ai bạn phải sống cuộc sống của mình như thế nào. Cuộc sống quí giá thế. Sống nó đi. Tôi không nói rằng bạn sẽ không phạm phải sai lầm, bạn sẽ phạm đấy. Nhớ lấy, chỉ một điều thôi - đừng phạm cùng sai lầm lặp đi lặp lại. Thế là đủ. Nếu bạn có thể thấy một sai lầm mới mọi ngày, cứ phạm nó đi. Nhưng đừng lặp lại sai lầm, điều đó là ngu xuẩn. Người có thể thấy những sai lầm mới phạm phải sẽ liên tục trưởng thành - đó là cách duy nhất để học, đó là cách duy nhất để đi tới ánh sáng bên trong riêng của bạn.
Tôi đã nghe:
Một đêm một nhà thơ, Awbadi của vùng Kerman (một nhà thơ Hồi giáo rất vĩ đại) đang ngồi dưới cổng vòm vắt qua một chiếc thuyền. Shams-e Tabrizi, một nhà huyền môn Sufi vĩ đại, tình cờ đi qua đó.
Shams-e Tabrizi nhìn nhà thơ, nhìn điều ông ấy đang làm. Ông này hỏi nhà thơ, "Ông đang làm gì thế?"
Nhà thơ nói, "Suy tư về mặt trăng trong bát nước."
Shams-e Tabrizi cười sằng sặc, cười như điên. Nhà thơ bắt đầu cảm thấy không thoải mái, đám đông tụ tập lại. Và nhà thơ nói, "Có chuyện gì vậy? Sao ông cười nhiều thế? Sao ông chế nhạo tôi?"
Shams-e Tabrizi nói, "Nếu ông không bị gẫy cổ, sao ông không nhìn thẳng vào trăng trên trời?"
Trăng có đó, trăng tròn có đó, và nhà thơ này lại đang ngồi với bát nước và nhìn vào trong bát nước đang phản chiếu trăng.
Tìm chân lí trong kinh sách, tìm chân lí trong triết lí là nhìn vào phản xạ. Nếu bạn hỏi ai đó khác bạn phải sống cuộc sống của mình thế nào, bạn đang hỏi hướng dẫn sai, bởi vì người đó chỉ có thể nói về cuộc sống riêng của người đó thôi. Và không bao giờ, không bao giờ hai cuộc sống lại hệt nhau. Bất kì điều gì người đó có thể nói hay truyền đạt cho bạn đều sẽ là về cuộc sống riêng của người đó - và điều đó nữa cũng chỉ nếu người đó đã sống. Người đó có thể đã hỏi ai đó khác, người đó có thể đã theo ai đó khác, người đó có thể là kẻ bắt chước bản thân mình. Thế thì đó là phản xạ của phản xạ. Và nhiều thế kỉ trôi qua và mọi người cứ suy ngẫm về cái phản xạ của cái phản xạ của cái phản xạ - còn trăng thực bao giờ cũng ở trên trời chờ đợi bạn. Đó là trăng của bạn, đó là bầu trời của bạn, nhìn thẳng đi. Trực tiếp về nó đi. Sao lại mượn mắt tôi hay mắt của bất kì ai khác? Bạn đã được cho đôi mắt, đôi mắt đẹp, để nhìn, và để nhìn trực tiếp. Sao lại mượn hiểu biết từ bất kì ai? Nhớ lấy, nó có thể là hiểu biết với tôi, nhưng khoảnh khắc bạn mượn nó, nó trở thành tri thức của bạn - nó không còn là hiểu biết nữa.
Hiểu biết là cái duy nhất đã từng được bản thân người ta trải nghiệm. Nó có thể là hiểu biết cho tôi, nếu tôi đã nhìn vào trăng, nhưng khoảnh khắc tôi nói nó cho bạn nó trở thành tri thức, nó không còn là hiểu biết. Thế thì nó chỉ là lời nói, thế thì nó chỉ là ngôn ngữ. Và ngôn ngữ là dối trá.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại.
Một nông dân chăn gà, không thoả mãn với năng suất của đàn gà, quyết định dùng một chút đòn tâm lí với lũ gà mái. Theo đó anh ta mua một con vẹt biết nói mầu xám và đặt nó vào sân nuôi gà. Đủ chắc, lũ gà mái chú ý ngay tới kẻ lạ mặt điển trai, đưa thức ăn ngon nhất cho nó ăn để lôi kéo sự chú ý bằng tiếng cục cục vui sướng, và nói chung đi quanh theo sau nó như một bầy thanh nữ xúc động đi theo sau ngôi sao ca nhạc. Điều làm anh nông dân vui mừng là năng lực đẻ trứng của chúng tăng lên.
Con gà trống trong sân, tự nhiên ghen tị vì bị lũ gà mái bỏ qua, tấn công kẻ hấp dẫn dám xâm phạm quyền lợi của mình, dùng mỏ và móng mổ túi bụi, dứt hết lông xanh tới lông đỏ. Trong khi đó con vẹt bị hăm doạ cứ kêu thảm thiết, "Thôi đi thưa ngài! Tôi cầu xin ngài đấy, thôi đi! Sau rốt, tôi chỉ ở đây với khả năng của giáo sư ngôn ngữ thôi!"
Nhiều người sống các kiếp sống của họ như giáo sư ngôn ngữ. Đó là loại sống giả tạo nhất. Thực tại không cần ngôn ngữ, nó sẵn có cho bạn ở mức vô lời. Trăng có đó; nó không cần bát, không cần nước, nó không cần trung gian khác. Bạn chỉ phải nhìn vào nó; nó là trao đổi vô lời. Toàn thể cuộc sống đều sẵn có - bạn chỉ phải học cách trao đổi với nó một cách vô lời.
Đó chính là thiền tất cả là gì - hiện hữu trong không gian nơi ngôn ngữ không can thiệp, nơi các khái niệm đã học không chen vào giữa bạn và cái thực.
Khi bạn yêu người đàn bà, đừng bận tâm về điều người khác đã nói về tình yêu, bởi vì điều đó sẽ là can nhiễu. Bạn yêu người đàn bà, tình yêu có đó, quên tất cả điều bạn đã học về tình yêu đi. Quên tất cả Kinseys, quên tất cả Các thầy và Johnsons, quên tất cả Freud và Jung đi. Xin đừng trở thành giáo sư ngôn ngữ. Cứ yêu người đàn bà đó và để tình yêu có đó, và để tình yêu dẫn bạn đi và hướng dẫn bạn vào những bí mật bên trong nhất. Thế thì bạn sẽ có khả năng biết tình yêu là gì.
Và điều người khác nói về thiền là vô nghĩa. Có lần tôi bắt gặp một cuốn sách do một thánh nhân Jaina viết ra về thiền. Cuốn sách thực hay, nhưng chỉ có vài chỗ mà tôi có thể thấy rằng bản thân người này chưa bao giờ thiền - bằng không thì những chỗ đó không thể có đó được. Nhưng chúng có rất ít và xa xăm ở giữa. Cuốn sách này về toàn thể, gần chín mươi chín phần trăm, là hoàn hảo. Tôi thích cuốn sách đó.
Thế rồi tôi quên mất nó. Trong mười năm tôi đi khắp miền quê đất nước. Một lần trong một làng ở Rajasthan, vị thánh đó tới gặp tôi. Tên ông ta nghe quen quen, và bỗng nhiên tôi nhớ tới cuốn sách đó. Và tôi hỏi vị thánh này sao ông ấy đã tới gặp tôi. Ông ấy nói, "Tôi đã đi tới gặp ông để biết thiền là gì." Tôi nói, "Tôi nhớ cuốn sách của ông. Tôi nhớ nó rõ lắm, bởi vì nó thực sự gây ấn tượng cho tôi. Ngoại trừ vài khiếm khuyết chứng tỏ rằng ông chưa bao giờ thiền, cuốn sách hoàn toàn đúng - chín mươi chín phần trăm là đúng. Và bây giờ ông tới đây để học về thiền. Ông chưa bao giờ thiền à?"
Ông ấy trông bối rối một chút bởi vì các đệ tử của ông ấy cũng ở đó. Tôi nói, "Cứ thẳng thắn. Bởi vì nếu ông nói ông biết thiền, thế thì tôi sẽ không nói về điều đó đâu. Thế thì kết thúc đi! Ông biết rồi. Không cần. Nếu ông nói với tôi một cách thẳng thắn - ít nhất cũng thực một lần - nếu ông nói ông chưa bao giờ thiền, chỉ thế thì tôi mới có thể giúp được ông hướng tới thiền." Đó là mặc cả, cho nên ông ấy phải thú nhận. Ông ấy nói, "Vâng, tôi chưa bao giờ nói điều đó cho bất kì ai. Tôi đã đọc nhiều sách về thiền, tất cả các kinh sách cũ. Và tôi đã từng dạy mọi người, đó là lí do tại sao tôi cảm thấy bối rối trước các đệ tử của tôi. Tôi đã từng dạy thiền cho cả nghìn người, và tôi đã viết sách về nó, nhưng tôi chưa bao giờ thiền."
Bạn có thể viết nhiều sách về thiền và chưa bao giờ bắt gặp không gian có thiền. Bạn có thể trở nên rất hiệu quả trong việc nói lời, bạn có thể trở nên rất láu cá trong trừu tượng, trong biện luận trí tuệ, và bạn có thể quên hoàn toàn rằng tất cả mọi lần bạn tham gia vào những hoạt động trí tuệ đó đều đã là cực kì phí hoài.
Tôi hỏi ông già này, "Ông đã quan tâm tới thiền bao lâu rồi?" Ông ấy nói, "Cả đời tôi." Ông ấy gần bẩy mươi. Ông ấy nói, "Khi tôi hai mươi tuổi tôi nhận tính chất sannyas, tôi trở thành sư Jaina, và năm mươi năm kể từ đó tôi đã đọc và đọc và nghĩ về thiền." Năm mươi năm nghĩ và đọc và viết về thiền, thậm chí hướng dẫn mọi người vào thiền, và ông ấy thậm chí đã không nếm trải lấy một lần thiền là gì!
Nhưng đây là trường hợp với hàng triệu người. Họ nói về tình yêu, họ biết tất cả thơ ca về tình yêu, nhưng họ chưa bao giờ yêu. Hay cho dù họ nghĩ họ đã trong tình yêu, họ vẫn chưa bao giờ trong tình yêu. Điều đó nữa cũng là thứ của "cái đầu," nó không phải là của trái tim. Mọi người sống và cứ bỏ lỡ cuộc sống. Cuộc sống cần dũng cảm. Nó cần dũng cảm để là thực, nó cần dũng cảm để đi cùng cuộc sống tới bất kì chỗ nào cuộc sống đưa tới, bởi vì con đường này là không được thăm dò, không có bản đồ. Người ta phải đi vào trong cái không biết.
Cuộc sống có thể được hiểu chỉ nếu bạn sẵn sàng đi vào trong cái không biết. Nếu bạn níu bám lấy cái đã biết, bạn níu bám vào tâm trí, và tâm trí không phải là cuộc sống. Cuộc sống là phi tâm trí, phi trí năng, bởi vì cuộc sống là toàn bộ. Tính toàn bộ của bạn phải được tham gia vào trong nó, bạn không thể chỉ nghĩ về nó. Suy nghĩ về cuộc sống không phải là cuộc sống. Cẩn thận với cái "về" này. Người ta cứ nghĩ về và về; có những người nghĩ về Thượng đế, có những người nghĩ về cuộc sống, có những người nghĩ về tình yêu. Có những người nghĩ về cái này và cái nọ.
Mulla Nasruddin trở nên rất già và đi tới bác sĩ. Ông ta trông rất yếu cho nên bác sĩ nói, "Tôi chỉ có thể nói một điều thôi. Ông sẽ phải cắt cuộc sống tình ái của mình đi một nửa."
Mulla nói, "Được thôi. Nửa nào? Nói về nó hay nghĩ về nó?"
Có vậy thôi - đừng trở thành giáo sư ngôn ngữ, đừng trở thành vẹt. Vẹt là giáo sư ngôn ngữ. Chúng sống trong lời, khái niệm, lí thuyết, thượng đế học, còn cuộc sống cứ trôi qua, tuột khỏi tay chúng. Thế rồi một hôm bỗng nhiên chúng trở nên sợ chết. Khi một người sợ chết, hãy biết rõ rằng người đó đã bỏ lỡ cuộc sống. Nếu người đó không bỏ lỡ cuộc sống thì không thể có nỗi sợ chết nào được. Nếu một người đã sống cuộc sống của mình, người đó sẽ sẵn sàng sống cả cái chết nữa. Người đó sẽ gần như được say mê bởi hiện tượng chết.
Khi Socrates sắp chết ông ấy say sưa tới mức đệ tử của ông ấy không thể hiểu được ông ấy đang cảm thấy hạnh phúc thế về cái gì. Một đệ tử, Credo, hỏi, "Sao thầy trông hạnh phúc thế? Chúng tôi đang kêu la khóc lóc." Socrates nói, "Sao ta phải không hạnh phúc? Ta đã biết cuộc sống là gì, bây giờ ta muốn biết cái chết là gì. Ta là cánh cửa của điều bí ẩn lớn lao, và ta đang xúc động! Ta sắp đi vào cuộc hành hương lớn vào trong cái không biết. Ta đơn giản đầy ngạc nhiên! Ta không thể đợi được!" Và nhớ lấy, Socrates không phải là người tôn giáo; Socrates không phải là người tin theo bất kì cách nào.
Ai đó hỏi, "Thầy có chắc là linh hồn sẽ còn sau cái chết không?" Socrates nói, "Ta không biết." Nói, "Ta không biết" cần dũng cảm lớn lao nhất trên thế giới. Rất khó cho giáo sư ngôn ngữ nói, "Tôi không biết." Điều đó là rất khó cho vẹt. Socrates là người rất chân thành và chân thật. Ông ấy nói, "Ta không biết."
Thế rồi đệ tử này hỏi, "Thế thì sao thầy cảm thấy hạnh phúc thế? Nếu linh hồn không còn, thì...? Socrates nói, "Ta phải nhìn chứ. Nếu ta còn, chẳng có sợ gì về nó cả. Nếu ta không còn, làm sao có thể có sợ được? Nếu ta không còn, thì ta không còn. Thế thì sợ ở đâu? Chẳng có ai ở đó cả, cho nên sợ không thể tồn tại được. Nếu ta còn, thì ta còn. Thế thì chẳng ích gì mà lâm vào sợ hãi về nó. Nhưng ta không biết đích xác cái gì sẽ xảy ra. Đó là lí do tại sao ta tràn đầy điều ngạc nhiên và sẵn sàng đi vào trong nó. Ta không biết."
Với tôi, đây là điều người tôn giáo phải vậy. Người tôn giáo không phải là người Ki tô giáo, hay người Hindu giáo, hay Phật tử, hay người Mô ha mét giáo. Tất cả những điều này đều là cách thức của tri thức. Người Ki tô giáo nói, "Tôi biết." Và tri thức của người đó tới từ giáo điều Ki tô giáo. Người Hindu nói, "Tôi cũng biết." Và tri thức của người đó tới từ Veda và Gita và giáo điều của người đó. Và người Hindu chống lại người Ki tô giáo, bởi vì người đó nói, "Nếu tôi đúng, anh không thể đúng được. Nếu anh đúng, thế thì tôi không đúng." Cho nên có tranh luận lớn và có nhiều tranh cãi và nhiều tranh luận và xung đột không cần thiết.
Người tôn giáo, người thực sự tôn giáo - không phải cái gọi là người tôn giáo - là người nói "Tôi không biết." Khi bạn nói "Tôi không biết" bạn cởi mở, bạn sẵn sàng học. Khi bạn nói "Tôi không biết" bạn không có định kiến nào cách này hay cách nọ, bạn không có niềm tin nào, bạn không có tri thức nào. Bạn chỉ có nhận biết. Bạn nói, "Tôi là nhận biết và tôi sẽ xem cái gì xảy ra. Tôi sẽ không mang giáo điều nào từ quá khứ."
Đây là thái độ của đệ tử, thái độ của người muốn học. Và môn học đơn giản nghĩa là việc học. Đệ tử nghĩa là người học, người sẵn sàng học, còn môn học nghĩa là việc học. Tôi không ở đây để dạy bạn giáo điều nào; tôi không truyền đạt bất kì tri thức nào cho bạn. Tôi đơn giản giúp bạn thấy cái đang đó. Sống cuộc sống của bạn với bất kì giá nào. Sẵn sàng đánh cược với nó.
Tôi nghe nói về một doanh nhân. Ông ấy đi từ văn phòng của mình tới tiệm ăn để ăn trưa thì bị một người lạ chặn lại, người này nói với ông ấy, "Tôi cho rằng ông không nhớ tôi, nhưng mười năm trước tôi đã tới thành phố này trong lúc khánh kiệt. Tôi đã xin ông cho vay và ông đã cho tôi hai mươi đô la bởi vì ông nói ông sẵn lòng tạo cơ hội cho người gặp trên đường được thành công."
Doanh nhân nghĩ một lúc rồi ông ấy nói, "Vâng, tôi nhớ vụ này rồi. Tiếp tục câu chuyện của ông đi."
"Vâng," người lạ nhận xét, "ông vẫn sẵn lòng đánh bạc chứ?"
Cuộc sống hỏi bạn cùng câu hỏi này lặp đi lặp lại: "Ông vẫn sẵng lòng đánh bạc chứ?" Nó chẳng bao giờ chắc chắn cả. Cuộc sống không có bảo hiểm nào cho nó; nó đơn giản là lối mở, lối mở hoang vu, lối mở hỗn độn. Bạn có thể làm ngôi nhà nhỏ quanh mình, an ninh, nhưng thế thì nó sẽ chứng tỏ là nấm mồ của bạn. Sống cùng cuộc sống đi.
Và chúng ta đã từng làm điều đó theo nhiều cách. Hôn nhân là do con người tạo ra; tình yêu là một phần của cuộc sống. Khi bạn tạo ra hôn nhân quanh tình yêu, bạn tạo ra an ninh. Bạn làm cái gì đó không thể được làm - tình yêu không thể được làm thành pháp lí. Bạn đang cố làm điều không thể được, và nếu, trong nỗ lực đó, tình yêu chết đi, thì cũng không có gì ngạc nhiên. Bạn trở thành chồng, bạn trở thành vợ. Bạn không còn là hai người sống động, bạn là hai viên chức. Chồng có chức năng nào đó, vợ có chức năng nào đó: họ có bổn phận nào đó phải hoàn thành. Thế thì cuộc sống đã dừng chảy, nó bị đông cứng lại.
Ngắm chồng và vợ mà xem. Bạn bao giờ cũng thấy hai người đông cứng, ngồi bên nhau đấy, chẳng biết họ đang làm gì ở đó, tại sao họ ngồi đó. Có thể họ chẳng có đâu mà đi.
Khi bạn thấy tình yêu giữa hai người, cái gì đó tuôn chảy, chuyển động, thay đổi. Khi có tình yêu giữa hai người, họ sống trong hào quang, có chia sẻ thường xuyên. Rung động của họ đạt tới nhau; họ đang phát bản thể mình cho nhau. Không có tường giữa họ, họ là hai vậy mà không là hai - họ cũng là một.
Chồng và vợ là xa xăm nhau như nó có thể vậy, cho dù họ có thể ngồi bên nhau. Chồng chưa bao giờ nghe điều vợ nói; anh ta phải thành điếc từ lâu rồi. Vợ chưa bao giờ thấy điều đang xảy ra cho chồng; cô ấy đã thành mù với anh ấy. Họ coi nhau như được cho không; họ đã trở thành đồ vật. Họ không còn là người bởi vì người bao giờ cũng cởi mở, người bao giờ cũng không chắc chắn, người bao giờ cũng thay đổi. Bây giờ họ có những qui tắc cố định phải hoàn thành. Họ chết đi vào ngày họ lấy nhau. Kể từ ngày đó họ đã không sống.
Tôi không nói đừng lấy nhau, nhưng nhớ rằng tình yêu là điều thực. Và nếu nó chết đi thế thì hôn nhân là vô giá trị.
Và cùng điều đó cũng đúng với mọi thứ trong cuộc sống, về mọi thứ. Hoặc bạn có thể sống nó - nhưng thế thì bạn phải sống với sự do dự này, không biết cái gì sắp xảy ra cho khoảnh khắc tiếp - hoặc bạn có thể làm mọi thứ chắc chắn về nó.
Có những người đã trở nên chắc chắn về mọi thứ tới mức họ chẳng bao giờ ngạc nhiên. Họ là những người mà bạn không thể ngạc nhiên về họ được. Và tôi ở đây để chuyển giao cho bạn một thông điệp rất gây ngạc nhiên - bạn sẽ không tin vào nó, tôi biết. Bạn không thể tin vào nó được, tôi biết. Tôi ở đây để nói với bạn về cái gì đó tuyệt đối không thể tin được - rằng bạn là thượng đế nam và thượng đế nữ. Bạn đã quên mất.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại.
Harvey Firestone, Thomas A. Edison, John Burroughs và Henry Forrd dừng lại tại một trạm dịch vụ vùng hoang sơ trên đường tới Florida trong mùa đông.
"Chúng tôi cần mua vài cái bóng đèn cho đèn pha trước," Ford nói. "Và nhân tiện, đấy là Thomas Edison đứng đó trong xe, và tôi và Henry Ford."
Anh già ở trạm dịch vụ thậm chí chẳng thèm nhìn lên, nhổ toẹt nước thuốc lá ra với sự khinh khỉnh hiển nhiên.
"Và," Ford nói, "chúng tôi muốn mua chiếc lốp mới nếu ông có lốp Fivestone. Và người kia trong xe chính là Harvey Firestone đấy."
Anh già vẫn chẳng nói gì. Trong khi ông ta cho lốp vào bánh xe, John Burroghs, với chòm râu trắng dài, thò đầu ra ngoài cửa sổ và nói, "Ông thế nào, người lạ?"
Cuối cùng ông già ở trạm dịch vụ mới trở lại sinh động. Ông ta ngước nhìn Burroghs và nói, "Nếu ông bảo tôi ông là Santa Claus, tôi sẽ kiềm chế để tôi không đập vỡ sọ ông ra bằng cái cờ lê này."
Ông ta không thể tin được rằng trong một xe có cả Harvey Firestone, Thomas A. Edison, John Burroughs và Henry Forrd cùng đi. Họ là bạn bè và họ thường đi cùng nhau.
Khi tôi nói với bạn rằng bạn là các thượng đế nam và thượng đế nữ, bạn sẽ không tin điều đó vì bạn đã hoàn toàn quên khuấy mất ai đang du hành trong bạn, ai đang ngồi trong bạn, ai đang nghe tôi. Bạn đã hoàn toàn quên mất. Bạn đã được cho một số nhãn nào đó từ bên ngoài và bạn đã tin cậy vào những cái nhãn đó - tên bạn, tôn giáo của bạn, đất nước của bạn - toàn thứ hư huyễn! Chẳng có ý nghĩa gì dù bạn là người Hindu hay người Ki tô giáo hay người Mô ha mét giáo nếu bạn không biết bản thân mình. Những cái nhãn đó không tạo ra nghĩa chút nào ngoại trừ rằng chúng có thể có tiện ích nào đó. Có nghĩa gì liệu bạn là người Hindu, hay người Ki tô giáo, hay người Mô ha mét giáo, hay người Ấn Độ, hay người Mĩ, hay người Trung Quốc? Tất cả đều không liên quan - bởi vì bản thể không là người Ấn Độ, không là người Trung Quốc, không là người Mĩ; và bản thể không là người Hindu, không là người Mô ha mét giáo, không là người Ki tô giáo. Bản thể đơn giản là "cái hiện hữu" thuần khiết.
"Cái hiện hữu" thuần khiết chính là điều tôi gọi là Thượng đế. Nếu bạn có thể hiểu cái thiêng liêng bên trong bạn đã hiểu cuộc sống là gì. Bằng không bạn vẫn chưa có khả năng giải mã cuộc sống. Đây là thông điệp. Toàn thể cuộc sống đang trỏ tới một điều, liên tục - rằng bạn là các thượng đế. Một khi bạn đã hiểu điều đó, thế thì không có cái chết. Thế thì bạn đã học xong bài học. Thế thì, trong cái chết, các thượng đế sẽ quay trở về nhà mình.
Khi giáo sĩ Bunam nằm chết, vợ ông ấy bật khóc nức nở.
Ông ấy nói, "Em khóc vì cái gì thế? Cả đời ta chỉ là điều ta có thể học cách chết."
Toàn thể cuộc sống... chỉ là việc huấn luyện về cách trở về nhà, cách chết đi, cách biến mất. Bởi vì khoảnh khắc bạn biến mất, Thượng đế xuất hiện trong bạn. Sự hiện diện của bạn là sự vắng mặt của Thượng đế; sự vắng mặt của bạn là sự hiện diện của Thượng đế.
Vứt bỏ quá khứ từng khoảnh khắc
Chết đã xảy ra rồi. Dù bạn đối diện nó hay không, dù bạn nhìn vào nó hay không, nó đã có đó rồi.
Điều đó giống như việc thở. Khi đứa trẻ được sinh ra, nó hít vào, nó thở vào lần đầu tiên. Đó là bắt đầu của sống. Và khi một ngày nào đó nó trở nên già, chết đi, nó sẽ thở ra.
Chết bao giờ cũng xảy ra với thở ra và sinh với hít vào. Nhưng thở ra và hít vào đang xảy ra liên tục. Với từng việc hít vào bạn được sinh ra; với từng việc thở ra bạn chết đi.
Cho nên điều đầu tiên cần hiểu là ở chỗ chết không ở đâu đó trong tương lai, chờ đợi bạn, như nó bao giờ cũng được hình dung ra. Nó là một phần của sống; nó là quá trình đang tiếp diễn - không trong tương lai, ở đây, bây giờ.
Sống và chết là hai mặt của sự tồn tại, đồng thời xảy ra cùng nhau.
Thông thường, bạn đã được dạy nghĩ về chết như chống lại sống. Chết không chống lại sống - sống là không thể được nếu không có chết. Chết là chính nền tảng để sống tồn tại trên nó. Chết và sống giống như đôi cánh: chim không thể bay được với một cánh, và bản thể không thể hiện hữu nếu không có chết. Cho nên điều đầu tiên là hiểu rõ ràng về điều chúng ta ngụ ý bởi chết.
Chết là quá trình tuyệt đối cần thiết để sống hiện hữu. Nó không phải là thù, nó là bạn. Và nó không có ở đâu đó trong tương lai, nó ở đây, bây giờ. Nó sẽ không xảy ra, nó bao giờ cũng đang xảy ra. Vì bạn đã ở đây nó đã ở đây cùng bạn. Với từng việc thở ra nó xảy ra - một chút ít chết, cái chết nhỏ - nhưng bởi vì sợ hãi chúng ta đã để nó vào trong tương lai.
Tâm trí bao giờ cũng cố gắng né tránh những điều nó không thể hiểu được, và chết là một trong những bí ẩn không thể hiểu được nhất. Chỉ có ba bí ẩn: sống, chết và yêu. Tất cả ba điều này đều ở ngoài tâm trí bạn.
Cho nên tâm trí coi sống như được cho không; không có nhu cầu truy tìm. Đó là cách né tránh. Bạn chưa bao giờ nghĩ, bạn chưa bao giờ thiền về cuộc sống; bạn đơn giản chấp nhận nó, coi nó như được cho không. Nó là bí ẩn vô cùng. Bạn sống động, nhưng không nghĩ rằng bạn đã biết sống.
Với chết, tâm trí giở thủ đoạn khác: nó trì hoãn chết. Việc chấp nhận chết ở đây và bây giờ sẽ là lo âu thường xuyên, cho nên tâm trí đẩy nó đi đâu đó trong tương lai - thế thì không có vội vã. Khi nó tới, chúng ta sẽ thấy.
Còn với yêu, tâm trí đã tạo ra cái thay thế, cái không phải là yêu. Đôi khi bạn gọi sở hữu là yêu; đôi khi bạn gọi gắn bó là yêu; đôi khi bạn gọi chi phối là yêu - đây toàn là trò chơi bản ngã. Yêu chẳng liên quan gì tới chúng. Thực tế, bởi vì những trò bản ngã này, yêu là không thể được.
Giữa sống và chết, giữa đôi bờ của sống và chết, dòng sông yêu tuôn chảy. Và đó là khả năng duy nhất cho người không coi cuộc sống như được cho không, người đi sâu vào trong phẩm chất của sống và trở nên mang tính tồn tại, đích thực. Yêu dành cho người chấp nhận chết ở đây và bây giờ và không trì hoãn nó. Thế thì giữa hai hiện tượng đẹp này phát sinh: dòng sông yêu.
Sống và chết giống như đôi bờ. Khả năng có đó cho dòng sông yêu tuôn chảy, nhưng nó chỉ là khả năng. Bạn sẽ phải hiện thực hoá nó. Sống và chết có đó, nhưng yêu phải được hiện thực hoá - đó là mục đích của việc là con người. Chừng nào yêu chưa hiện thực hoá, bạn đã bỏ lỡ - bạn đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề hiện hữu.
Chết bao giờ cũng xảy ra - cho nên đừng để nó vào tương lai. Nếu bạn không để nó vào tương lai thì không có vấn đề bảo vệ bản thân mình. Nếu nó đã xảy ra - và nó vẫn đang xảy ra - thế thì không có vấn đề bảo vệ bản thân bạn khỏi chết. Chết không giết bạn, nó vẫn đang xảy ra trong khi bạn đang vẫn sống. Nó xảy ra ngay bây giờ và sống không bị phá huỷ bởi nó; thực tế, bởi vì nó, sống tự đổi mới nó từng khoảnh khắc. Khi lá cũ rụng đi, chúng tạo ra không gian cho lá mới tới. Khi hoa cũ biến mất, hoa mới xuất hiện. Khi một cánh cửa đóng lại, cánh cửa khác lập tức mở ra. Từng khoảnh khắc bạn chết đi và từng khoảnh khắc có phục sinh.
Có lần một nhà truyền giáo Ki tô giáo tới tôi và ông ta hỏi, "Ông có tin vào phục sinh của Jesus Christ không?"
Tôi bảo ông ta rằng không cần đi xa thế. Từng khoảnh khắc mọi người đều được phục sinh rồi. Nhưng ông ta không thể hiểu được điều đó. Điều đó là khó cho những người quá bám vào ý thức hệ của họ.
Ông ta nói, "Nhưng ông có tin rằng ông ấy bị đóng đinh không? Điều này không phải chỉ là huyền thoại, hay nó là thực tế? Ông nghĩ sao?"
Tôi lại nói với ông ta rằng mọi người đều bị đóng đinh mọi khoảnh khắc. Đó là toàn thể nghĩa của việc đóng đinh Jesus và phục sinh của ông ấy. Dù điều đó là lịch sử hay không cũng chẳng thành vấn đề chút nào. Đơn giản là không liên quan tới việc nghĩ liệu điều đó có xảy ra hay không - nó đang xảy ra đấy.
Từng khoảnh khắc quá khứ đều bị đóng đinh, lá cũ biến mất. Và từng khoảnh khắc con người mới nảy sinh trong bạn, phục sinh. Đó là phép màu bất biến.
Điều thứ hai cần hiểu về chết là ở chỗ chết là điều chắc chắn duy nhất. Mọi thứ khác đều không chắc chắn: nó có thể xảy ra, nó có thể không xảy ra. Chết là chắc chắn bởi vì trong sinh một nửa của nó đã mở ra, cho nên đầu kia cũng phải ở đâu đó, cực kia cũng phải ở đâu đó trong bóng tối. Bạn còn chưa bắt gặp nó bởi vì bạn sợ; bạn không đi vào trong bóng tối. Nhưng nó là chắc chắn! Với sinh, chết đã trở thành chắc chắn.
Một khi cái chắc chắn này thấm vào hiểu biết của bạn, bạn được thảnh thơi. Bất kì khi nào cái gì đó tuyệt đối chắc chắn thế thì không có lo nghĩ. Lo nghĩ nảy sinh từ không chắc chắn.
Quan sát đi. Một người sắp chết và người đó rất lo nghĩ. Khoảnh khắc cái chết trở thành chắc chắn và bác sĩ nói, "Bây giờ không thể cứu được anh," người đó bị choáng. Cơn rùng mình ớn lạnh chạy qua người anh ta. Nhưng thế rồi mọi sự lắng đọng, và lập tức mọi lo nghĩ biến mất. Nếu người này được phép biết rằng mình sắp chết và cái chết đó là chắc chắn, với chắc chắn đó an bình, im lặng tới với bản thể của anh ta.
Mọi người sắp chết đều có quyền biết điều đó. Các bác sĩ cứ giấu giấu giếm giếm điều đó nhiều lần, cứ nghĩ, "Sao lại quấy rối người đó?' Nhưng cái không chắc chắn mới quấy rối; cái chắc chắn không bao giờ. Việc treo ở giữa này, việc ở trong tình trạng lấp lửng, tự hỏi liệu người ta sẽ sống hay chết - đây là căn nguyên của mọi lo nghĩ. Một khi đã chắc chắn rằng bạn sẽ chết thế thì chẳng có gì để làm cả. Thế thì người ta đơn giản chấp nhận nó. Và trong việc chấp nhận đó, bình thản, yên bình xảy ra. Cho nên nếu người này được phép biết rằng mình sắp chết, trong khoảnh khắc của chết người đó trở nên an bình.
Ở phương Đông chúng ta đã từng thực hành điều đó trong hàng nghìn năm. Không chỉ điều đó, ở các nước như Tây Tạng những kĩ thuật đặc biệt đã được tiến hoá để giúp cho con người chết. Họ gọi điều đó là Bardo Todol. Khi một người sắp chết, bạn bè, họ hàng và người thân sẽ tụ tập lại quanh người đó để cho người đó sự chắc chắn tuyệt đối rằng người đó sẽ chết, và để giúp người đó thảnh thơi.
Bởi vì nếu bạn có thể chết đi trong thảnh thơi toàn bộ, phẩm chất của chết thay đổi và sinh mới của bạn ở đâu đó sẽ có phẩm chất cao hơn. Phẩm chất của sinh được quyết định bởi chết. Và thế rồi, đến lượt nó, phẩm chất của sinh sẽ quyết định phẩm chất của chết khác. Đó là cách người ta cứ đi lên ngày càng cao hơn, đó là cách người ta tiến hoá. Và bất kì khi nào một người trở nên tuyệt đối chắc chắn về chết, ngọn lửa nảy sinh trên khuôn mặt người đó - bạn có thể thấy nó. Thực tế, phép màu xảy ra: người đó trở nên sống động như người đó chưa bao giờ được thấy trước đây.
Có câu ngạn ngữ ở Ấn Độ rằng trước khi ngọn lửa chết, nó trở nên cực kì mạnh mẽ. Chỉ một khoảnh khắc nó bừng sáng tới toàn bộ.
Tôi đã đọc một giai thoại nhỏ:
Ngày xưa có hai con giun nhỏ. Con thứ nhất lười và không biết lo xa, và bao giờ cũng nằm ườn mãi trên giường. Con kia bao giờ cũng dậy sớm, đi làm việc của mình. Con chim sớm bắt được con giun sớm. Thế rồi một ngư dân tới cùng với chiếc đèn pin, và bắt con giun đêm. Đạo đức: bạn không thể thắng được.
Cái chết là chắc chắn. Dù bạn làm cái gì - dậy sớm hay không - cái chết là chắc chắn. Nó đã xảy ra rồi, đó là lí do tại sao nó chắc chắn; nó đang xảy ra, đó là lí do tại sao nó chắc chắn. Cho nên sao lại đợi đến khoảnh khắc bạn chết trên giường? Sao không làm cho nó thành chắc chắn ngay bây giờ?
Quan sát đi. Nếu tôi nói chết là chắc chắn, bạn không thể cảm thấy sợ tan biến đi bên trong bạn sao? Bạn không thể cảm thấy rằng với chính ý tưởng này - và nó chỉ là một ý tưởng ngay bây giờ, không phải là kinh nghiệm của bạn - với chỉ một ý tưởng rằng chết là chắc chắn, bạn bình thản và yên tĩnh. Nếu bạn có thể kinh nghiệm nó... Và bạn có thể, bởi vì nó là sự kiện. Tôi không nói về lí thuyết; tôi không quan tâm tới lí thuyết. Đây là sự kiện đơn giản. Mở mắt ra và quan sát nó. Và đừng cố né tránh nó; không có cách nào để né tránh nó cả. Trong né tránh, bạn bỏ lỡ. Chấp nhận nó. Ôm choàng lấy nó. Và sống với ý thức rằng từng khoảnh khắc bạn chết đi và từng khoảnh khắc bạn được sinh ra. Cho phép nó xảy ra. Đừng níu bám lấy quá khứ - nó không còn nữa, nó đã qua rồi. Sao cứ mang những thứ chết thế? Sao cứ bị nặng gánh với những cái xác? Vứt chúng đi. Và bạn sẽ cảm thấy vô trọng lượng; bạn sẽ cảm thấy nhẹ gánh.
Và một khi bạn vứt bỏ quá khứ, tương lại cũng vứt bỏ theo cách riêng của nó, bởi vì tương lai không là gì ngoài phóng chiếu của quá khứ. Trong quá khứ bạn đã có vui thú nào đó; bây giờ tâm trí phóng chiếu cũng những vui thú đó vào tương lai. Trong quá khứ bạn có khổ nào đó; bây giờ tâm trí phóng chiếu vào tương lai mà trong đó những khổ đó không được phép xảy ra. Đó chính là tương lai của bạn đấy. Tương lai của bạn còn có thể là cái gì khác được? Vui thú bạn đã tận hưởng trong quá khứ được phóng chiếu lên còn khổ bị vứt bỏ đi. Tương lai của bạn là quá khứ được sửa đổi và nhiều mầu sắc hơn, được tô vẽ lại, được đổi mới lại, nhưng nó là quá khứ. Một khi quá khứ bị vứt bỏ, bỗng nhiên tương lai bị vứt bỏ - và thế thì bạn được bỏ lại ở đây và bây giờ; thế thì bạn ở trong sự tồn tại, bạn mang tính tồn tại, và đó là cách duy nhất để hiện hữu. Tất cả các cách khác đều chỉ là để né tránh cuộc sống. Bạn càng né tránh cuộc sống, bạn càng trở nên sợ cái chết.
Người thực sự sống thì không sợ chết theo bất kì cách nào. Nếu bạn sống đúng bạn được chấm dứt với chết, bạn đã quá duyên dáng, được hoàn thành. Nhưng nếu bạn đã không sống, thế thì lo nghĩ thường xuyên vẫn tiếp tục, "Mình vẫn chưa sống hết mà chết lại đang tới. Và chết sẽ chấm dứt tất cả; với chết sẽ không có tương lai." Cho nên người ta trở nên e dè, sợ hãi, và cố gắng né tránh chết.
Trong cố gắng né tránh chết, người ta cứ bỏ lỡ sống. Quên chuyện né tránh đó đi. Sống cuộc sống đi. Trong việc sống cuộc sống, chết được né tránh. Trong việc sống cuộc sống, bạn trở nên được hoàn thành tới mức nếu chính khoảnh khắc này chết tới và tương lai dừng lại, bạn sẽ sẵn sàng. Bạn sẽ sẵn sàng một cách hạnh phúc. Bạn đã sống cuộc sống của mình; bạn đã vui sướng trong sự tồn tại; bạn đã mở hội nó; bạn được mãn nguyện. Không phàn nàn, không lầu bầu; bạn không có gì cằn nhằn cả. Bạn đón chào cái chết. Và chừng nào bạn còn chưa thể đón chào cái chết, một điều là chắc chắn - bạn đã không sống.
Tôi đã nghe một giai thoại:
Hai nhà quí tộc Hung ga ri lâm vào cuộc cãi nhau chí tử. Nhưng vì cả hai chẳng ai muốn liều mạng bằng kiếm hay súng lục, họ quyết định đọ sức không đổ máu. Mỗi người nói ra một con số, và người nào đưa ra con số cao hơn sẽ được coi là người thắng.
Giây phút dĩ nhiên trong tay, sự kích động và tâm trạng hồi hộp lên cực điểm khi hai nhà quí tộc, ngồi ở hai đầu đối diện qua chiếc bàn dài, dồn suy nghĩ về con số cao. Bên thách đấu được quyền nghĩ trước lâu và gay go. Mạch máu phồng ra trên thái dương ông ta, và mồ hôi vã ra trên trán.
"Ba," cuối cùng ông ta nói.
Người đọ sức kia nói ngay, "Ồ, điều đó đánh bại tôi rồi."
Khi bạn sợ chết thì ngay cả số ba cũng là tối thượng. Khi bạn sợ chết bạn cứ đi tìm cớ để tiếp tục sống. Dù cuộc sống của bạn có nghĩa gì hay không người ta đơn giản cứ tìm cớ để kéo dài nó.
Ở phương Tây bây giờ, có sự điên cuồng về làm sao kéo dài cuộc sống. Điều đó đơn giản chỉ ra rằng ở đâu đó cuộc sống đang bị bỏ lỡ. Bất kì khi nào một nước hay nền văn hoá bắt đầu nghĩ về cách kéo dài cuộc sống, nó đơn giản chỉ ra một điều - rằng cuộc sống còn không được sống. Nếu bạn sống cuộc sống, thế thì ngay cả một khoảnh khắc cũng là đủ. Một khoảnh khắc có thể bằng cả vĩnh hằng. Vấn đề không phải là chiều dài, vấn đề là chiều sâu; vấn đề không phải là lượng, vấn đề là chất.
Nghĩ mà xem: bạn muốn có một khoảnh khắc của cuộc sống của Phật hay bạn muốn có một nghìn năm cuộc sống riêng của mình? Thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu điều tôi ngụ ý về phẩm chất, sự mãnh liệt, chiều sâu. Trong một khoảnh khắc sự hoàn thành là có thể: bạn có thể nở hoa và bừng nở. Nhưng bạn có thể không nở hoa trong một nghìn năm, bạn có thể vẫn còn ẩn trong hạt mầm.
Đây là khác biệt giữa thái độ khoa học hướng tới cuộc sống và thái độ tôn giáo. Thái độ khoa học bận tâm tới việc kéo dài - cách kéo dài cuộc sống. Nó không bận tâm tới ý nghĩa. Cho nên bạn có thể tìm thấy người già trong bệnh viện, đặc biệt ở phương Tây, cứ treo đó. Họ muốn chết nhưng nền văn hoá không cho phép họ chết. Họ được nuôi dưỡng chỉ để sống; họ đơn giản sống thực vật. Không có ý nghĩa, không có nghĩa, không thơ ca, bởi vì mọi thứ đã biến mất, và họ là gánh nặng cho chính họ. Họ đang yêu cầu cái chết không đau đớn nhưng xã hội không cho phép điều đó. Xã hội sợ cái chết tới mức nó không cho phép ngay cả những người sẵn sàng chết.
Chính từ "chết" là từ kiêng kị, còn kiêng kị hơn cả dục. Dục dần dần đã trở nên được chấp nhận. Bây giờ chết cũng cần một Freud để làm cho nó dần dần được chấp nhận. Bây giờ chết cũng cần một Freud để làm cho nó được chấp nhận để cho nó không còn là điều kiêng kị và mọi người có thể nói về nó và chia sẻ kinh nghiệm của họ về nó. Thế thì không cần che giấu nó và không cần buộc mọi người sống ngược với bản thân mình. Trong bệnh viện, trong gia đình của người già, mọi người đơn giản khó chịu bởi vì xã hội, nền văn hoá, luật pháp, sẽ không cho phép họ hiện hữu.
Nếu họ hỏi rằng họ có nên được cho phép chết đi không, điều đó có vẻ như họ đang yêu cầu tự tử. Họ không yêu cầu tự tử. Thực tế, họ đã trở thành các cái xác chết rồi; họ là việc tự tử sống và họ đang yêu cầu được gạt bỏ nó. Dài lâu không có nghĩa. Bạn sống bao lâu không phải là vấn đề: bạn sống sâu thế nào, bạn sống mãnh liệt thế nào, bạn sống toàn bộ thế nào - phẩm chất - mới là vấn đề.
Khoa học quan tâm tới lượng; tôn giáo quan tâm tới chất. Tôn giáo quan tâm tới nghệ thuật về cách sống cuộc sống và cách chết cuộc sống. Bẩy năm, bẩy mươi năm hay bẩy trăm năm - điều đó sẽ tạo ra khác biệt gì nào? Bạn sẽ cứ lặp lại cùng cái vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại mãi. Bạn sẽ đơn giản ngày một chán hơn.
Cho nên đổi việc hội tụ của con người bạn đi. Học cách sống từng khoảnh khắc và học cách chết từng khoảnh khắc.Cả hai cùng nhau. Nếu bạn biết cách chết đi từng khoảnh khắc, bạn sẽ có khả năng sống từng khoảnh khắc - tươi tắn, trẻ trung, trong trắng. Chết đi quá khứ. Đừng cho phép nó xen vào hiện tại của bạn. Khoảnh khắc bạn đã đi qua nó, cứ để cho nó không còn đó nữa. Nó không còn đó nữa; nó chỉ đi vào trong kí ức của bạn, nó chỉ là hồi tưởng. Để việc hồi tưởng này cũng được thoát ra. Khó chịu tâm lí này không nên được phép diễn ra.
Tôi không nói rằng bạn phải quên đi mọi thứ mà bạn biết. Tôi không nói rằng mọi kí ức đều xấu. Nó có hữu dụng kĩ thuật. Bạn phải biết cách lái xe, bạn phải biết nhà mình ở đâu, bạn phải nhận ra vợ mình và con mình. Nhưng những cái đó không phải là khó chịu tâm lí. Khi bạn về nhà dĩ nhiên bạn nhận ra rằng đây là vợ bạn. Đây là kí ức sự kiện - hữu dụng, nâng cao cuộc sống, tạo điều kiện cho nó. Nhưng nếu bạn về nhà và bạn nhìn vợ mình với tất cả kinh nghiệm quá khứ cùng cô ấy, thế thì đó là khó chịu tâm lí. Hôm qua cô ấy đã giận dữ... bây giờ lần nữa bạn lại nhìn với kí ức đó ở giữa; mắt bạn bị che mờ bởi kí ức đó. Hôm kia cô ấy đã buồn hay gắt gỏng và cằn nhằn - bây giờ nếu bạn nhìn qua tất cả những ấn tượng tâm lí này thế thì bạn không nhìn người đàn bà đang đứng ngay bây giờ trước bạn. Bạn đang nhìn vào ai đó không có đó, bạn đang thấy ai đó không tồn tại, bạn đang nhìn vào bóng ma - cô ấy không phải là vợ bạn. Và cô ấy có thể cũng đang nhìn vào bạn theo cùng cách đó.
Cho nên ma gặp nhau, còn người thực vẫn còn tách rời; ma lấy nhau, và người thực li biệt. Thế thì hai con ma này sẽ làm tình, hai con ma này sẽ đánh nhau, cãi nhau, và làm cả nghìn lẻ một điều, còn người thực sẽ là xa, xa xôi. Sẽ không có tiếp xúc; người thực sẽ không có ghép nối nào. Thế thì không thể có trao đổi được, không thể có đối thoại được. Chỉ người thực mới có thể yêu. Ma chỉ có thể làm những cử chỉ bất lực - chuyển động, nhưng không có cuộc sống trong họ.
Vứt quá khứ từng khoảnh khắc đi. Nhớ vứt nó đi. Cũng như bạn lau nhà mọi sáng, mọi khoảnh khắc lau sạch ngôi nhà quá khứ bên trong của bạn đi. Mọi kí ức tâm lí đều phải bị vứt bỏ. Chỉ giữ sự kiện và tâm trí bạn sẽ rất, rất sạch sẽ và rõ ràng.
Đừng đi trước bản thân mình vào tương lai bởi vì điều đó không thể làm được. Tương lai vẫn còn không biết; đó là cái đẹp của nó, đó là vĩ đại của nó, niềm vinh quang. Nếu nó trở nên được biết nó sẽ là vô dụng, bởi vì thế thì toàn thể kích động và toàn thể ngạc nhiên sẽ bị mất.
Đừng mong đợi cái gì trong tương lai. Đừng làm biến chất nó. Bởi vì nếu tất cả mong đợi của bạn đều được hoàn thành thì thế nữa bạn sẽ vẫn khổ... bởi vì nó là mong đợi của bạn và nó đã được hoàn thành. Bạn sẽ không hạnh phúc về nó. Hạnh phúc là có thể chỉ qua ngạc nhiên; hạnh phúc là có thể chỉ khi cái gì đó xảy ra mà bạn chưa bao giờ mong đợi, khi cái gì đó chiếm toàn bộ vô nhận biết của bạn. Nếu mong đợi của bạn được hoàn thành một trăm phần trăm, bạn sẽ sống cứ dường như bạn đang trong quá khứ, không trong tương lai. Bạn có thể về nhà và bạn mong đợi vợ mình nói cái gì đó và cô ấy nói. Và bạn mong đợi con bạn cư xử theo cách nào đó và nó làm vậy. Cứ nghĩ mà xem - bạn sẽ thường xuyên chán chường. Chẳng cái gì sẽ xảy ra. Mọi thứ sẽ chỉ là lặp lại, cứ dường như bạn đang thấy cái gì đó mà bạn đã thấy trước đây rồi. Liên tục bạn sẽ thấy rằng nó là lặp lại của cái gì đó. Và lặp lại không bao giờ có thể thoả mãn cả. Cái mới, cái mới lạ, cái nguyên bản được cần tới.
Cho nên nếu mong đợi của bạn được hoàn thành, bạn sẽ vẫn còn hoàn toàn không được hoàn thành.
Và nếu mong đợi của bạn không được hoàn thành, thế thì bạn cảm thấy thất vọng. Thế thì bạn thường xuyên cảm thấy dường như bạn đề nghị mà Thượng đế cứ phớt lờ; bạn cảm thấy rằng Thượng đế là kẻ thù; bạn cảm thấy dường như mọi người đều chống lại bạn và mọi người đều làm để chống bạn. Nếu mong đợi của bạn không bao giờ được hoàn thành bạn sẽ cảm thấy thất vọng.
Thiền về mong đợi của bạn đi: nếu chúng được hoàn thành bạn sẽ cảm thấy chán, nếu chúng không được hoàn thành bạn sẽ cảm thấy bị lừa. Bạn sẽ cảm thấy dường như một mưu đồ đang diễn ra chống lại bạn, dường như toàn thể sự tồn tại đều đang âm mưu chống lại bạn. Bạn sẽ cảm thấy bị khai thác, bạn sẽ cảm thấy bị bác bỏ, bạn sẽ không có khả năng cảm thấy như ở nhà. Và toàn thể vấn đề nảy sinh bởi vì bạn mong đợi.
Đừng đi lên trước vào tương lai. Đừng mong đợi.
Một khi bạn vứt bỏ mong đợi bạn đã học được cách sống rồi. Thế thì mọi thứ xảy ra đều hoàn thành cho bạn, dù nó là bất kì cái gì. Với một điều này, bạn không bao giờ cảm thấy thất vọng bởi vì ngay chỗ đầu tiên bạn không bao giờ mong đợi. Cho nên thất vọng là không thể có được. Thất vọng là cái bóng của mong đợi. Với mong đợi bị vứt bỏ, thất vọng tự vứt bỏ nó đi theo cách của nó.
Bạn không thể làm cho tôi thất vọng được, bởi vì tôi chưa bao giờ mong đợi cái gì cả. Dù bạn làm bất kì cái gì, tôi sẽ nói, "Tốt." Tôi bao giờ cũng nói, "Tốt," ngoại trừ chỉ vài lần tôi nói, "Rất tốt."
Một khi mong đợi không có đó bạn được tự do đi vào trong cái không biết và chấp nhận cái không biết - bất kì cái gì nó đem lại. Và chấp nhận nó với lòng biết ơn sâu sắc. Phàn nàn biến mất; càu nhàu biến mất; dù bất kì tình huống nào, bạn bao giờ cũng cảm thấy chấp nhận được, như ở nhà. Không ai chống lại bạn cả, sự tồn tại không âm mưu gì chống lại bạn - nó là nhà của bạn.
Điều thứ hai: khi mọi thứ xảy ra một cách bất ngờ, mọi thứ trở thành mới. Nó đem lại tươi tắn cho cuộc sống của bạn; làn gió tươi mát liên tục thổi và nó không cho phép bụi cát tụ lên bạn. Cửa ra vào và cửa sổ của bạn đều mở; ánh mặt trời chiếu vào, làn gió thổi vào, hương thơm của hoa bay vào - mọi thứ đều bất ngờ. Bạn chưa bao giờ yêu cầu nó, và sự tồn tại cứ trút nó lên bạn. Người ta cảm thấy Thượng đế hiện hữu.
Tuyên bố "Thượng đế hiện hữu" không phải là tuyên bố; nó là phát biểu về ai đó đã sống một cách bất ngờ, không mong đợi nào, người đã sống trong ngạc nhiên. Thượng đế không phải là một giả thuyết logic; đó là cảm thán về niềm vui. Nó cũng giống như "Aha!," hay thế, kì diệu thế, mới thế, lạ thế, và bên ngoài bất kì cái gì bạn có thể đã mơ. Vâng, cuộc sống còn phiêu lưu hơn bất kì cuộc phiêu lưu nào bạn có thể tưởng tượng. Và cuộc sống thai nghén, bao giờ cũng thai nghén, cái không biết.
Một khi bạn mong đợi, mọi thứ đều bị phá huỷ. Vứt quá khứ đi; đó là cách chết đi từng khoảnh khắc. Đừng bao giờ lập kế hoạch cho tương lai; đó là cách cho phép cuộc sống tuôn chảy qua bạn. Và thế thì bạn vẫn còn trong trạng thái không đông cứng, tuôn chảy. Đây là điều tôi gọi là sannyasin - không quá khứ, không tương lai, chỉ sống động khoảnh khắc này, sống động mãnh liệt, ngọn lửa bùng cháy từ cả hai đầu, ngọn đuốc cháy từ cả hai đầu. Đây là điều buông bỏ là gì.
Tỉnh rượu đi!
Chuyện Thiền
Sư Zuigan thường bắt đầu mọi ngày bằng việc nói to với chính mình, "Thầy ơi, thầy có đấy chứ?" Và ông ấy sẽ trả lời, "Vâng, tôi có đây."
Thế rồi ông ấy sẽ nói, "Tốt hơn cả là tỉnh rượu đi." Và ông ấy sẽ đáp, "Vâng, tôi sẽ làm điều đó."
Thế rồi ông ấy sẽ nói, "Cẩn thận bây giờ, đừng để họ lừa ông." Và ông ấy sẽ trả lời, "Ồ không đâu, tôi sẽ không bị lừa, không bị lừa đâu."
Thiền không thể là thứ bị phân mảnh, nó nên là nỗ lực liên tục. Mọi khoảnh khắc người ta đều phải tỉnh táo, nhận biết, và có tính thiền. Nhưng tâm trí giở thủ đoạn: bạn thiền vào buổi sáng và thế rồi bạn gạt nó sang bên; hay bạn cầu nguyện trong đền chùa và thế rồi quên nó đi. Thế rồi bạn quay về với thế giới, hoàn toàn không có tính thiền, vô ý thức, cứ dường như bước đi trong giấc ngủ thôi miên. Nỗ lực phân mảnh này sẽ chẳng có tác dụng gì mấy. Làm sao bạn có thể thiền trong một giờ khi bạn đã từng không thiền trong hai mươi ba giờ của ngày? Điều đó là không thể được. Bỗng nhiên trở nên có tính thiền trong một giờ là không thể được. Bạn đơn giản có thể tự lừa mình thôi.
Tâm thức là liên tục; nó giống như dòng sông, thường xuyên chảy. Nếu bạn có tính thiền cả ngày, mọi khoảnh khắc của ngày... và chỉ khi bạn có tính thiền cả ngày, việc nở hoa sẽ tới với bạn. Chẳng cái gì tới trước đâu.
Giai thoại Thiền này có vẻ ngớ ngẩn nhưng rất có nghĩa. Bậc thầy này, sư này thường tự gọi mình - đây là điều thiền nghĩa là gì, tự gọi mình - ông ấy thường gọi tên riêng của mình. Ông ấy sẽ nói, "Ông có đấy không?" Và đích thân ông ấy sẽ đáp, "Dạ có ạ, tôi đây." Đây là nỗ lực, nỗ lực trên đỉnh, để tỉnh táo. Bạn có thể dùng điều này, nó sẽ rất có ích. Bỗng nhiên, đang bước đi trên phố, bạn tự gọi mình theo tên riêng của mình, "Ông có đấy không?" Bỗng nhiên suy nghĩ dừng lại, và bạn phải trả lời, "Có, tôi đây." Điều đó đem bạn về sự hội tụ. Khi suy nghĩ dừng lại bạn có tính thiền, tỉnh táo.
Việc gọi mình là một kĩ thuật. Đi ngủ, tắt đèn trong đêm, bỗng nhiên bạn gọi, "Ông có đấy không?" Và trong bóng tối đó tỉnh táo tới. Bạn trở thành ngọn lửa và bên trong bạn trả lời, "Có, tôi đây."
Và thế rồi sư này thường nói, "Tỉnh rượu đi!" Chân thành, đích thực vào; đừng giở trò. Ông ấy thường gọi bản thân mình, "Tỉnh rượu đi!" Và ông ấy sẽ đáp, "Vâng, tôi sẽ làm mọi nỗ lực tôi có thể làm."
Toàn thể cuộc sống của chúng ta là việc lừa xung quanh. Bạn có thể làm điều đó bởi vì bạn không nhận biết về cách bạn lừa, cách bạn phí hoài năng lượng - cách cuộc sống bị làm phí hoài mà bạn không nhận biết. Đó là mòn mỏi mất dần. Mọi thứ cứ mòn mỏi đi. Chỉ khi cái chết tới với bạn, bạn mới có thể trở nên nhận biết, tỉnh táo: Mình đã làm gì thế này? Mình đã làm gì với cuộc sống thế này? Một cơ hội lớn lao đã bị mất. Mình đã làm gì lừa dối xung quanh? Mình đã không tỉnh rượu. Mình chưa bao giờ suy nghĩ về điều mình đã làm.
Cuộc sống không chỉ là để đi qua, nó là để đạt tới đâu đó sâu bên trong bạn. Cuộc sống không trên bề mặt, nó không phải là chu vi, nó là trung tâm. Và bạn chưa đạt tới tâm. Tỉnh tượu đi! Đã phí hoài đủ thời gian rồi. Tỉnh táo và nhìn điều bạn đang làm. Và bạn đang làm gì? Kiếm tiền sao? Nó cuối cùng, chung cuộc là vô dụng. Nó lại là trò chơi, trò chơi tiền. Bạn có nhiều hơn người khác, bạn cảm thấy tốt; người khác có nhiều hơn bạn, bạn cảm thấy tệ. Nó là trò chơi. Nhưng nghĩa của nó là gì? Bạn thu được gì từ nó? Cho dù bạn có tất cả tiền mà thế giới có, vào khoảnh khắc chết, bạn sẽ chết đi như kẻ ăn xin thôi. Cho nên toàn thể của cải thế gian không thể làm bạn giầu được. Trò chơi không thể làm bạn giầu được. Tỉnh rượu đi!
Ai đó theo đuổi quyền lực, danh vọng, ai đó theo đuổi dục, và ai đó theo đuổi cái gì đó khác. Tất cả đều là trò chơi. Chừng nào bạn còn chưa động tới tâm của bản thể mình tất cả đều là trò chơi. Trên bề mặt chỉ trò chơi tồn tại, và trên bề mặt chỉ có sóng, và trong những con sóng đó bạn sẽ chỉ khổ sở và trôi giạt. Bạn không thể bỏ neo vào trong cái ta của mình được. Đây là lí do tại sao ông ấy phải gọi, "Tỉnh rượu đi!" Ông ấy nói, "Đừng chơi trò chơi nữa. Thế là đủ rồi, ông đã chơi đủ rồi. Đừng phí hoài thời gian thêm nữa. Dùng cuộc sống để bỏ neo, dùng cuộc sống để bắt rễ, dùng cuộc sống như cơ hội để đạt tới điều thiêng liêng. Ông đang ngồi ngay ngoài ngôi đền, ngồi ngay bậu cửa, chơi trò chơi, và điều tối thượng đang đợi ngay đằng sau ông. Gõ cửa và cửa sẽ mở cho ông..." Nhưng bạn không có thời gian còn lại để ra khỏi trò chơi.
"Tỉnh rượu đi" nghĩa là nhớ điều bạn đang làm và tại sao bạn làm nó. Nhưng cho dù bạn thành công, bạn có thể đạt tới đâu? Đây là nghịch lí - rằng bất kì khi nào người ta thành công trong những trò chơi ngu xuẩn này, lần đầu tiên người đó trở nên nhận biết rằng toàn thể mọi sự đã là vô nghĩa. Chỉ những người chưa bao giờ thành công mới cứ chơi trò chơi; những người thành công bỗng nhiên trở nên nhận biết rằng chẳng cái gì đã được đạt tới cả. Cứ hỏi Alexandre, hỏi Napoleon điều ông ấy đã đạt tới.
Người ta kể về Alexandre rằng trước khi ông ấy chết, ông ấy bảo với triều đình, "Khi các ông đem thân thể chết của ta đi trên phố, để cả hai tay ta thò ra ngoài. Đừng che đậy chúng." Điều này là hiếm hoi - không ai đã được mang đi theo cách đó.
Triều đình không thể hiểu nổi, cho nên họ hỏi, "Bệ hạ ngụ ý gì? Điều này không phải là cách thức thông thường. Toàn thân phải được che kín... Sao bệ hệ muốn cả hai tay thò ra?"
Alexandre đáp, "Ta muốn mọi người được biết rằng ta chết đi với hai bàn tay trống rỗng. Mọi người phải thấy điều đó, và không ai nên cố gắng là Alexandre lần nữa. Ta đã thu được nhiều mà dầu vậy vẫn chẳng thu được gì; vương quốc của ta là lớn nhưng ta vẫn nghèo."
Bạn chết đi là người ăn xin cho dù bạn là hoàng đế; thế thì toàn thể mọi sự dường như giống giấc mơ. Cũng như buổi sáng giấc mơ tan vỡ và tất cả tính chất hoàng đế biến mất, mọi vương quốc biến mất, cho nên cái chết là việc đánh thức. Cái còn lại trong cái chết là cái thực, cái mà biến mất là mơ: đây là tiêu chí. Và khi sư này thường gọi, "Tỉnh rượu đi!," ông ấy ngụ ý điều này: nhớ tới cái chết và đừng lãng phí thời gian gian xung quanh.
Bạn cứ tiếp tục theo cách dường như bạn sẽ không chết bao giờ. Tâm trí bạn nói, "Chết bao giờ cũng xảy ra cho người khác, không bao giờ cho mình; nó bao giờ cũng là hiện tượng xảy ra cho người khác, không bao giờ cho mình." Ngay cả bạn nhìn một người sắp chết bạn cũng chẳng bao giờ nghĩ rằng bạn đang chết trong người đó. Cái chết của người đó là biểu tượng: cùng điều đó sẽ xảy ra cho bạn. Nếu bạn có thể thấy rằng bạn sắp chết, liệu bạn có khả năng chơi những trò chơi này một cách nghiêm chỉnh thế, đánh cược toàn bộ cuộc sống của bạn vì cái không không? Sư này phải khi gọi vào buổi sáng, "Tỉnh rượu đi!" Bất kì khi nào bạn bắt đầu chơi trò chơi - với vợ bạn, trong cửa hiệu, trong chợ, trong chính trị, nhắm mắt lại, tự gọi mình, và nói, "Tỉnh rượu đi!" Và sư này thường đáp, "Dạ vâng, tôi sẽ làm mọi nỗ lực tôi có thể làm."
Điều nữa là ở chỗ ông ấy thường nhớ vào buổi sáng. Và tại sao lại buổi sáng? Buổi sáng đặt ra hình mẫu, ý nghĩ đầu tiên trong buổi sáng trở thành cánh cửa; do đó tất cả các tôn giáo đều nhấn mạnh vào ít nhất hai lời cầu nguyện.
Nếu bạn có thể có tính cầu nguyện, đó là điều đúng, nhưng nếu không có, thế thì nói ít nhất hai lời cầu nguyện - một vào buổi sáng một vào buổi đêm. Vào buổi sáng, khi bạn còn tươi tắn và giấc ngủ đã rời khỏi bạn và tâm thức lại vươn dậy, ý nghĩ đầu tiên, lời cầu nguyện, thiền, hồi tưởng, sẽ đặt hình mẫu cho cả ngày. Điều đó sẽ trở thành cánh cửa... bởi vì mọi sự đi theo dây chuyền. Nếu bạn giận dữ vào buổi sáng, cả ngày bạn sẽ trở nên ngày một giận dữ hơn. Cơn giận đầu tiên tạo ra dây chuyền, cơn giận thứ hai theo sau dễ dàng, cơn giận thứ ba trở thành tự động - và thế rồi bạn ở trong nó. Thế thì bất kì cái gì xảy ra quanh bạn cũng đều tạo ra giận dữ. Có tính cầu nguyện vào buổi sáng, hay tỉnh táo - tự gọi mình, lưu tâm - đặt ra hình mẫu.
Trong đêm cũng vậy, khi bạn đi ngủ, ý nghĩ cuối cùng trở thành hình mẫu cho cả giấc ngủ. Nếu ý nghĩ cuối cùng có tính thiền, cả giấc ngủ sẽ trở thành thiền; nếu ý nghĩ cuối cùng là về dục, cả giấc ngủ sẽ bị quấy rối bởi giấc mơ dục; nếu ý nghĩ cuối cùng là về tiền, cả đêm bạn sẽ trong mua bán ngoài chợ. Ý nghĩ không phải là điều ngẫu nhiên. Nó tạo ra dây chuyền, và thế rồi mọi sự đi theo và những điều tương tự đi theo.
Cho nên cầu nguyện ít nhất hai lần một ngày. Người Mô ha mét giáo cầu nguyện ít nhất năm lần. Điều đó là hay, bởi vì nếu một người cầu nguyện năm lần một ngày thì điều đó gần như là suy nghĩ liên tục. Người đó phải nhớ, "Bây giờ buổi sáng đã tới, bây giờ buổi trưa, bây giờ lời cầu nguyện buổi tối, bây giờ lời cầu nguyện buổi đêm đã tới..." Có các lỗ hổng, nhưng hai lời cầu nguyện gần nhau tới mức chúng trở nên được gắn với nhau. Cứ nhìn người Mô ha mét giáo cầu nguyện mà xem: họ là những người đẹp nhất cho lời cầu nguyện. Người Hindu trông chẳng có vẻ cầu nguyện thế - họ sẽ làm nó vào buổi sáng. Nhưng người Mô ha mét giáo phải cầu nguyện năm lần; chỉ thế thì người đó mới là người Mô ha mét giáo. Đó là một qui tắc đơn giản, và năm lần, liên tục nhớ, tạo nên hình mẫu. Nó trở thành dòng chảy bên trong; bạn phải tới nó lặp đi lặp lại. Giữa hai lời cầu nguyện sẽ khó mà giận dữ được; giữa hai lời cầu nguyện sẽ khó mà hung hăng và bạo hành. Điều nền tảng là ở chỗ nếu điều người ta làm mà liên tục thì không cần năm lời cầu nguyện. Dầu vậy vẫn có lỗ hổng, và bạn tinh ranh tới mức bạn có thể lấp đầy lỗ hổng này bằng cái gì đó sai, và thế rồi lời cầu nguyện của bạn sẽ bị ảnh hưởng. Thế thì nó sẽ không là lời cầu nguyện thực. Bạn sẽ cầu nguyện đấy, nhưng bên trong, sâu bên dưới, dòng chảy sai sẽ cứ tiếp diễn và tiếp diễn.
Vào buổi sáng sư này thường tự gọi mình - bởi vì phật tử không tin vào lời cầu nguyện, họ tin vào thiền. Phân biệt này phải được hiểu. Bản thân tôi không tin vào lời cầu nguyện; nhấn mạnh của tôi cũng là vào thiền. Có hai kiểu người tôn giáo: một kiểu là kiểu cầu nguyện, và kiểu kia là kiểu thiền. Phật tử nói không cần cầu nguyện, chỉ cần tỉnh táo, nhận biết, bởi vì tỉnh táo sẽ cho bạn tâm trạng cầu nguyện. Cũng không cần cầu nguyện Thượng đế. Làm sao bạn có thể cầu nguyện Thượng đế mà bạn không biết? Lời cầu nguyện của bạn là trong bóng tối; bạn không biết điều thiêng liêng. Nếu bạn biết ngài sẽ không cần cầu nguyện - cho nên lời cầu nguyện của bạn chỉ là dò dẫm trong bóng tối. Bạn đang nói chuyện với ai đó mà bạn không biết, cho nên làm sao việc nói chuyện của bạn có thể đích thực và thực được, làm sao nó có thể tới từ trái tim được? Nó chỉ là niềm tin và sâu bên dưới có hoài nghi. Sâu bên dưới bạn không chắc liệu Thượng đế có tồn tại hay không; sâu bên dưới bạn không chắc liệu lời cầu nguyện này là độc thoại hay đối thoại, liệu có ai đó đang lắng nghe và sẽ trả lời không, hay liệu bạn có một mình không, cứ thế nói với mình. Sự không chắc chắn này sẽ phá huỷ toàn thể vấn đề.
Phật nhấn mạnh vào thiền. Ông ấy nói, "Không cần người khác; biết rõ rằng ông một mình thôi." Ít nhất chừng ấy cũng là chắc chắn - rằng bạn một mình. Đặt cuộc sống của bạn lên cái gì đó tuyệt đối chắc chắn đi... bởi vì làm sao bạn có thể đặt cuộc sống của mình lên cái gì đó không chắc chắn, hoài nghi, cái chỉ tồn tại như niềm tin, không như việc biết? Nhưng chắc chắn trong cuộc sống là gì? Duy nhất một điều là chắc chắn, và đó là bạn. Mọi thứ khác đều có thể bị hoài nghi.
Tôi ở đây nói với bạn: bạn có thể không ở đây, nó có thể chỉ là mơ thôi. Bạn ở đây nghe tôi; tôi có thể không ở đây, nó có thể chỉ là mơ, bởi vì nhiều lần trong mơ bạn đã nghe tôi rồi. Và khi mơ đang diễn ra, nó có vẻ thực. Làm sao bạn có thể phân biệt được liệu đây là mơ hay không? Làm sao bạn có thể phân biệt được giữa cái thực và mơ? Không có cách nào. Về người khác bạn không bao giờ có thể chắc chắn được; không có cách nào để chắc chắn về người khác. Về bản thân mình chỉ bạn mới có thể chắc chắn được; chắc chắn duy nhất có đó là bạn. Tại sao? - bởi vì ngay cả để hoài nghi chính mình, bạn phải có đó.
Người cha của triết học phương tây hiện đại, Descarters, đã bắt đầu hoài nghi; ông ấy hoài nghi mọi thứ, bởi vì ông ấy đi tìm cái gì đó mà không thể hoài nghi được. Duy nhất điều có thể trở thành cơ sở của cuộc sống thực, cuộc sống đích thực - là điều có thể được hoài nghi. Điều có thể được tin không thể trở thành nền tảng thực được. Nền tảng này đang chìm dần và bạn xây nhà trên cát. Cho nên ông ấy hoài nghi mọi thứ. Thượng đế có thể bị hoài nghi dễ dàng, thế giới có thể bị hoài nghi, nó có thể chỉ là giấc mơ; người khác... ông ấy hoài nghi mọi thứ.
Thế rồi bỗng nhiên ông ấy trở nên nhận biết rằng ông ấy không thể hoài nghi chính mình được. Điều đó là mâu thuẫn. Nếu bạn nói rằng bạn hoài nghi bản thân mình điều đó nghĩa là bạn phải tin bạn có đó để hoài nghi. Bạn có thể nói rằng bạn có thể bị lừa về bản thân mình, nhưng có ai đó người phải có đó để mà bị lừa chứ. Cái ta không thể bị lừa được.
Do đó Mahavira đã không tin vào Thượng đế; ông ấy chỉ tin vào cái ta, bởi vì đó là cái chắc chắn duy nhất. Bạn không thể phát triển lên từ không chắc chắn được. Khi có chắc chắn thì có tin cậy; khi có không chắc chắn thì có thể có niềm tin, nhưng niềm tin bao giờ cũng che giấu hoài nghi.
Cho nên nhiều người tới tôi là người hữu thần. Họ tin vào Thượng đế, nhưng niềm tin của họ chỉ sâu như làn da. Hích họ chút ít, đẩy họ chút ít, lay họ chút ít - họ trở nên hoài nghi và họ trở nên sợ. Kiểu tôn giáo nào là có thể đây nếu bạn sợ nhiều thế? Cái gì đó không thể nghi ngờ được cần tới.
Mahavira và Phật cả hai đều nhấn mạnh tới thiền. Họ bỏ lời cầu nguyện; họ nói: làm sao ông có thể cầu nguyện được? Ông không biết điều thiêng liêng, cho nên ông không thể thực sự tin được... Ông có thể áp đặt niềm tin, nhưng niềm tin bị áp đặt là niềm tin giả. Và bạn có thể biện minh và thuyết phục bản thân mình, nhưng điều đó sẽ không có tác dụng, bởi vì luận cứ của bạn, thuyết phục của bạn, bao giờ cũng là của bạn; còn tâm trí cứ vẩn vơ.
Cho nên Phật và Mahavira cả hai đều nhấn mạnh vào thiền. Thiền là kĩ thuật hoàn toàn khác. Không cần tin, không cần đi tới người khác; bạn một mình ở đó. Nhưng bạn phải đánh thức bản thân mình: đó là điều sư kia đang làm. Ông ấy không gọi tên của Ram, ông ấy không gọi tên của Allah, ông ấy gọi tên của bản thân mình, và chỉ bản thân ông ấy thôi, bởi vì chẳng cái gì khác là chắc chắn. Ông ấy gọi toàn thể tên của mình, "Ông có đấy không?" Và ông ấy không đợi bất kì Thượng đế nào đáp lại. Ông ấy đáp lại cho mình, "Dạ có ạ, tôi đây."
Đây là thái độ của Phật tử, rằng bạn một mình ở đó. Nếu bạn ngủ bạn phải gọi bản thân mình, bạn phải trả lời. Đó là độc thoại. Đừng đợi bất kì Thượng đế nào trả lời bạn; không có ai trả lời bạn cả, câu hỏi của bạn sẽ mất hút trong bầu trời trống rỗng, lời cầu nguyện của bạn sẽ không được nghe - chẳng có ai khác để nghe chúng. Cho nên sư này dường như ngu xuẩn, nhưng thực sự, tất cả những người đang trong lời cầu nguyện có thể còn ngu hơn sư này. Sư này đang làm một điều chắc chắn hơn, tự gọi mình và tự trả lời mình.
Bạn có thể làm cho bản thân mình tỉnh táo, tôi bảo bạn, tên bạn là mật chú đấy. Đừng gọi Thượng đế, đừng gọi Allah, cứ gọi tên riêng của bạn. Nhiều lần trong ngày, bất kì khi nào bạn cảm thấy buồn ngủ, bất kì khi nào bạn cảm thấy rằng trò chơi xong rồi và bạn làm mất mình trong đó, lại gọi bản thân mình, "Ông có đấy không?" - và tự trả lời mình. Đừng đợi câu trả lời của bất kì ai; không có ai trả lời bạn đâu. Trả lời, "Dạ có đây, tôi đây." Và đừng trả lời miệng, hãy cảm thấy câu trả lời: "Tôi đây." Và hiện diện ở đó, tỉnh táo. Trong tỉnh táo đó ý nghĩ dừng lại, trong tỉnh táo đó tâm trí biến mất, cho dù một khoảnh khắc. Và khi không có tâm trí thì có thiền; khi tâm trí đã dừng lại thiền tới trong hiện hữu.
Nhớ lấy, thiền không phải là cái gì đó do tâm trí làm, nó là vắng tâm trí. Khi tâm trí dừng lại thiền xảy ra. Nó không phải là cái gì đó bắt nguồn từ tâm trí, nó là cái gì đó bên ngoài tâm trí. Và bất kì khi nào bạn tỉnh táo, tâm trí đều không có. Cho nên chúng ta có thể kết luận rằng tính ngủ của bạn là tâm trí bạn, vô nhận biết của bạn là tâm trí bạn, kẻ mộng du của bạn là tâm trí bạn. Bạn đi cứ như say, chẳng biết mình là ai, không biết mình đang đi đâu, không biết tại sao mình đi.
Và điều thứ ba sư này nói là nhớ không bị người khác lừa. Người khác đang lừa bạn liên tục. Không chỉ bạn tự lừa mình, người khác cũng lừa bạn. Làm sao người khác lừa bạn được? Toàn thể xã hội, nền văn hoá, nền văn minh, đều âm mưu tập thể. Đó là lí do tại sao không xã hội nào cho phép người nổi dậy; mọi xã hội đều yêu cầu vâng lời, tuân thủ. Không xã hội nào cho phép ý nghĩ nổi dậy. Tại sao? Ý nghĩ nổi dậy làm cho mọi người nhận biết rằng toàn thể sự việc chỉ là trò chơi, và khi mọi người trở nên nhận biết rằng toàn thể sự việc chỉ là trò chơi, họ trở nên nguy hiểm, họ bắt đầu vượt ra ngoài xã hội.
Xã hội tồn tại như một quốc gia thôi miên, và đám đông là nhân tố thôi miên. Bạn được sinh ra, nhưng khi bạn được sinh ra bạn không là người Hindu giáo không là người Ki tô giáo, bởi vì tâm thức không thể thuộc vào giáo phái nào. Tâm thức thuộc về cái toàn thể, nó không thể mang tính giáo phái được. Đứa trẻ đơn giản hiện hữu, hồn nhiên với mọi cái vô nghĩa của Hindu giáo, Phật giáo, Ki tô giáo. Đứa trẻ là tấm gương thuần khiết. Nhưng ngay lập tức xã hội bắt đầu làm việc trên đứa trẻ này - cái khuôn phải được trao. Đứa trẻ được sinh ra là tự do, nhưng ngay lập tức xã hội bắt đầu giết chết tự do của nó. Cái khuôn phải được trao, hình mẫu.
Nếu bạn được sinh ra trong gia đình Hindu cha mẹ bạn sẽ bắt đầu dạy bạn rằng bạn là người Hindu. Bây giờ họ đang tạo ra trạng thái thôi miên. Không ai là người Hindu cả - nhưng đứa trẻ này hồn nhiên, nó có thể bị lừa. Đứa trẻ này đơn giản. Nó sẽ tin cha mẹ, rằng nó là người Hindu - không chỉ là người Hindu, mà là Brahmin, không chỉ là Brahmin, mà còn là Deshsastha brahmin. Giáo phái bên trong giáo phái, cũng như các cái hộp Trung Quốc - hộp bên trong hộp. Và người đó càng trở nên hạn hẹp hơn, người đó càng trở thành tù nhân hơn. Cái hộp cứ nhỏ dần nhỏ dần đi. Người đó đã giống như bầu trời khi người đó được sinh ra. Thế rồi người đó trở thành người Hindu, cái hộp nhỏ hơn; thế rồi người đó trở thành Brahmin - cái hộp nhỏ hơn; thế rồi người đó trở thành Deshastha - cái hộp thậm chí còn nhỏ hơn nữa.
Điều này cứ diễn ra mãi. Xã hội cứ ép buộc người đó vào những cái hộp nhỏ hơn, và thế rồi người đó sẽ phải sống như một Deshsastha brahmin. Trong cả đời mình, người đó sẽ sống trong cái hộp này. Người đó sẽ mang cái hộp này quanh mình. Cái hộp này là nấm mồ. Người đó phải bước ra khỏi những cái hộp này; chỉ thế thì người đó mới biết tâm thức thực là gì.
Thế rồi xã hội cho các khái niệm; thế rồi xã hội cho các định kiến và hệ thống và tôn giáo. Và thế rồi người đó sẽ không bao giờ có khả năng nhìn trực tiếp, bao giờ xã hội cũng sẽ có đó để diễn giải. Bạn không nhận biết khi bạn nói cái gì đó là tốt. Bạn có đó không, nhìn mà xem? Đây có phải là cảm giác của bạn, rằng cái gì đó là tốt, hay chỉ là cách diễn giải của xã hội? Cái gì đó xấu: bạn đã nhìn vào trong nó và đi tới kết luận rằng cái gì đó là xấu không, hay xã hội đơn giản đã dạy bạn rằng đây là xấu?
Nhìn mà xem! Người Hindu nhìn phân bò và nghĩ rằng đây là thứ thuần khiết nhất có thể có trên thế giới. Không ai trên thế giới sẽ nghĩ phân bò là thứ thuần khiết nhất trên thế giới - phân bò là phân, chất thải - nhưng người Hindu coi phân bò là thứ thuần khiết nhất trên thế giới. Người đó sẽ ăn nó một cách sung sướng. Người đó ăn nó! Không ai trên thế giới có thể tin được làm sao người Hindu lại có thể bị lừa theo cách này, nhưng họ bị lừa đấy. Khi đứa trẻ Hindu được điểm đạo, panchamrita được trao cho nó - một tổ hợp đặc biệt của năm thứ. Trong năm thứ này phân bò là một, và nước đái bò là thứ khác. Thật khó - không ai có thể tin được rằng điều này là đúng. Nhưng họ có định kiến riêng của họ. Dẹp mọi định kiến đi và nhìn trực tiếp vào.
Nhưng không xã hội nào cho phép bạn nhìn trực tiếp cả. Xã hội bao giờ cũng tới và diễn giải, và bạn bị nó lừa. Sư này vào buổi sáng thường gọi, "Đừng bị người khác lừa đấy." Và ông ấy sẽ đáp lại, "Dạ vâng ạ - xin vâng, tôi sẽ không bị người khác lừa đâu."
Điều này phải được nhớ tới thường xuyên, bởi vì người khác có khắp xung quanh và họ đang lừa bạn theo những cách tinh vi thế. Và bây giờ người khác có nhiều quyền năng hơn bao giờ. Qua quảng cáo, qua radio, qua báo chí, qua tivi, người khác đang thao túng bạn.
Ở Mĩ, toàn thể thị trường phụ thuộc vào cách bạn có thể lừa khách hàng, cách bạn có thể tạo ra ý tưởng trong tâm trí người khác. Bây giờ, chỗ để hai xe hơi là điều phải có nếu bạn muốn hạnh phúc; ở Mĩ, chỗ để hai xe là điều phải có. Không ai hỏi tại sao cả. Nếu bạn không sung sướng với một xe hơi, làm sao bạn có thể sung sướng được với hai xe? Nếu chỉ có sung sướng năm mươi phần trăm với một xe, làm sao bạn có thể sung sướng với hai xe được? Với một xe bạn bất hạnh; với hai xe bạn sẽ bất hạnh gấp đôi, có vậy thôi. Toán học là đơn giản! Nhưng có quảng cáo, tuyên truyền; toàn thể xã hội tồn tại qua thao túng người khác.
Hạnh phúc là cái gì đó giống như món hàng ở chợ - bạn tới và mua nó, nó phải được mua. Làm sao hạnh phúc có thể được mua? Hạnh phúc không phải là món hàng, nó không phải là đồ vật; nó là phẩm chất của việc sống, hệ quả của cuộc sống khác. Bạn không thể mua được nó - không có cách nào.
Nhìn vào báo chí Mĩ và bạn sẽ thấy bạn đang bỏ lỡ cái gì: hạnh phúc có thể được mua chỉ qua tiền. Họ tạo ra cảm giác rằng bạn đang bỏ lỡ cái gì đó; thế rồi bạn bắt đầu làm việc vì nó, thế rồi bạn kiếm tiền, thế rồi bạn mua nó. Và thế rồi bạn cảm thấy rằng bạn đã bị lừa. Nhưng cảm giác đó không thật sâu sắc, bởi vì trước khi bạn cảm thấy rằng bạn đã bị lừa thì lừa dối mới nào đó đã đi vào tâm trí, và bây giờ chúng đang kéo bạn lên trước. Bạn phải có ngôi nhà miền quê, hay bạn phải có khu nghỉ dưỡng mùa hè, hay bạn phải có chiếc du thuyền - cái gì đó bao giờ cũng có đó cần được đạt tới. Chỉ thế thì bạn mới hạnh phúc. Chúng sẽ cứ kéo bạn tới cái chết của bạn. Cho tới khi bạn chết, những quảng cáo đó, những tuyên truyền đó sẽ cứ kéo bạn đi.
Sư này là đúng. Đây phải là một phần của sự tỉnh táo của bạn, rằng bạn không nên bị người khác lừa. Toàn thể xã hội tồn tại trên khai thác, khai thác người khác. Mọi người đều khai thác, và khai thác này không chỉ ở trong chợ, nó có ở trong đền chùa, trong nhà thờ, trong giáo đường. Nó có ở mọi nơi... bởi vì tu sĩ cũng là doanh nhân thôi, và giáo hoàng là siêu doanh nhân. Bởi vì bạn cần an bình, bạn hỏi xin an bình, cho nên có những người nói, "Tới chúng tôi đi, chúng tôi sẽ cho bạn an bình." Bạn hỏi xin phúc lạc, và có những người sẵn sàng bán phúc lạc cho bạn. Nếu những người như Maharishi Mahesh Yogi đã thành công ở phương Tây, họ không thành công ở phương Đông. Không ai nghe họ ở Ấn Độ. Không ai bận tâm.
Nhưng Mĩ nghe mọi loại vô nghĩa. Một khi bạn mắc vào đúng kinh tuyên truyền, một khi bạn mắc vào đủ mọi người quản cáo đúng, thế thì không có vấn đề gì. Maharishi Mahesh Yogi nói cứ dường như im lặng bên trong có thể mua được ngay lập tức, cứ dường như trong vòng một tuần bạn có thể tìm ra thiền; chỉ bằng việc ngồi trong mười lăm phút và lẩm nhẩm mật chú bạn sẽ hạnh phúc mãi mãi. Và tâm trí Mĩ, vốn đã bị đầu độc bởi các quảng cáo, bị hấp dẫn và đám đông tụ tập lại. Đám đông cứ thay đổi, nhưng nó bao giờ cũng là đám đông, và cứ dường như là mọi sự xảy ra. Ngay cả đền chùa và nhà thờ cũng trở thành cửa tiệm.
Thiền không thể được mua và không ai có thể trao nó cho bạn được. Bạn phải đạt tới nó. Nó không phải là cái gì đó bên ngoài, nó là cái gì đó bên trong, sự trưởng thành, và trưởng thành đó tới qua nhận biết. Gọi tên riêng của bạn, vào buổi sáng, vào buổi đêm, vào buổi trưa, bất kì khi nào bạn cảm thấy buồn ngủ, gọi tên riêng của mình. Và không chỉ gọi nó, trả lời nó và nói thật to. Đừng sợ người khác. Bạn đã từng sợ người khác đủ rồi; họ đã sát hại bạn qua sợ hãi. Đừng sợ. Ngay cả ở bãi chợ bạn cũng phải nhớ. Gọi tên riêng của mình, "Joseph, ông có đấy không?" Và trả lời, "Dạ có ạ."
Cứ để mọi người cười. Đừng bị họ lừa. Điều duy nhất cần đạt tới là tỉnh táo - không cần kính trọng, không cần tôn trọng từ mọi người... Bởi vì đó là một trong những thủ đoạn của họ: họ làm cho bạn vâng lời qua việc tôn trọng. Họ nói, "Chúng tôi sẽ kính trọng ông. Ông cúi xuống và vâng lời. Đừng có đó chút nào. Cứ theo xã hội và xã hội sẽ bày tỏ kính trọng ông nhiều." Đây là dàn xếp lẫn nhau. Bạn càng chết xã hội càng bày tỏ kính trọng bạn; bạn càng sống động xã hội sẽ tạo ra rắc rối cho bạn. Tại sao?
Jesus phải bị đóng đinh bởi vì ông ấy đã là người sống động. Ông ấy phải đã nhớ trong thời thơ ấu của mình, "Jesus, đừng bị người khác lừa." Và ông ấy đã không bị lừa, cho nên người khác phải đóng đinh ông ấy bởi vì ông ấy không phải là một phần của trò chơi. Đây là những người đã thoát ra khỏi nhà tù, và bất kì điều gì bạn nói bạn cũng không thể thuyết phục được họ quay trở lại. Họ sẽ không vào nhà tù nữa. Họ đã biết tự do của bầu trời rộng mở.
Nhớ lấy: lưu tâm và tỉnh táo. Nếu bạn tỉnh táo, nếu hành động của bạn trở nên ngày một nhận biết hơn, bất kì điều gì bạn làm sẽ không được làm trong giấc ngủ. Toàn thể nỗ lực của xã hội là làm cho bạn thành tự động, là làm cho bạn thành cái máy tự động, là làm cho bạn thành cái máy hoàn hảo, hiệu quả.
Khi bạn bắt đầu học lái xe bạn tỉnh táo nhưng không hiệu quả, bởi vì tỉnh táo lấy mất năng lượng, và bạn phải tỉnh táo với nhiều điều - số, vô lăng, phanh, chân ga, bộ li hợp. Có nhiều thứ bạn phải nhận biết tới mức bạn không thể hiệu quả được, bạn không thể đi nhanh được. Nhưng dần dần, khi bạn trở nên hiệu quả, bạn không cần nhận biết. Bạn có thể cứ ngân nga bài hát hay nghĩ bên trong hay giải câu đố, và chiếc xe cứ tự đi. Thân thể làm điều đó một cách tự động. Bạn càng trở nên tự động bạn càng hiệu quả hơn. Xã hội cần hiệu quả, cho nên nó làm cho bạn thành ngày một hiệu quả hơn: trong mọi thứ bạn làm, cứ thành tự động. Xã hội không bận tâm về nhận biết của bạn; nhận biết của bạn là vấn đề cho xã hội. Bạn được yêu cầu hiệu quả hơn, năng suất hơn. Máy năng suất hơn bạn. Xã hội không muốn bạn là người, nó cần bạn như thiết bị máy móc cho nên nó làm bạn hiệu quả hơn và ít nhận biết hơn. Đây là tự động hoá. Đây là cách xã hội lừa bạn. Bạn trở thành hiệu quả, nhưng linh hồn của bạn bị mất.
Nếu bạn có thể hiểu được tôi, thế thì toàn thể nỗ lực của các kĩ thuật thiền là để giải tự động hoá cho bạn, để làm bạn lại thành tỉnh táo, làm bạn lại là người, không là máy. Lúc ban đầu bạn sẽ thành kém hiệu quả, nhưng đừng bận tâm về điều đó bởi vì mọi thứ đã lắng đọng như cái máy tự động. Lúc ban đầu mọi thứ sẽ trở thành đống lộn xộn. Bạn sẽ không có khả năng làm cái gì hiệu quả. Bạn sẽ cảm thấy khó khăn, bởi vì bạn đã trở nên bị cố định với hiệu quả vô ý thức. Để hiệu quả có ý thức, sẽ cần nỗ lực lâu dài, nhưng dần dần bạn sẽ nhận biết và hiệu quả.
Nếu trong tương lai có tồn tại khả năng nào của xã hội con người thực, điều đầu tiên, điều căn bản sẽ phải được làm là điều này: không làm trẻ con thành tự động. Cho dù có tốn thời gian lâu hơn để làm cho chúng hiệu quả, cứ làm chúng hiệu quả có nhận biết; đừng làm chúng thành máy. Sẽ lâu hơn, bởi vì hai điều phải được học: hiệu quả và nhận biết. Xã hội con người sẽ cho bạn nhận biết, cho dù kém hiệu quả, nhưng hiệu quả sẽ tới dần dần. Thế thì khi bạn tỉnh táo bạn sẽ có khả năng hiệu quả mà tỉnh táo.
Thiền là giải tự động hoá ngay lúc bắt đầu. Thế thì bạn sẽ bắt đầu làm việc với nhận biết mới - hiệu quả vẫn còn trong thân thể, và tâm thức vẫn còn tỉnh táo. Bạn không trở thành máy, bạn vẫn còn là người. Nếu bạn trở thành máy, bạn đã đánh mất tính người.
Sư này đang làm việc giải tự động hoá. Từ ngay buổi sáng ông ấy đã tự gọi mình, nói, "Tỉnh táo nhé!," nói, "Đừng tự lừa mình!," nói, "Đừng bị người khác lừa!" Ba tầng này của lưu tâm phải được đạt tới.
Tôi đã nghe...
Ngày xưa chuyện xảy ra là một thanh niên thuộc gia đình quí tộc và rất giầu tới gặp một Thiền sư. Anh ta đã biết mọi điều, mê đắm trong mọi ham muốn; anh ta có đủ tiền, cho nên không có vấn đề gì. Nhưng thế rồi anh ta phát chán - chán với dục, chán với đàn bà, chán với rượu. Anh ta tới gặp Thiền sư và nói, "Bây giờ tôi chán thế giới này rồi. Có cách nào để tôi biết bản thân mình không, tôi là ai?"
Anh thanh niên nói, "Nhưng trước khi thầy nói điều gì, để tôi kể cho thầy cái gì đó về bản thân tôi. Tôi là người không quyết đoán và không thể tiếp tục cái gì được lâu, cho nên nếu thầy cho tôi kĩ thuật nào đó, hay nếu thầy bảo tôi thiền, tôi có thể làm nó trong vài ngày và thế rồi tôi sẽ trốn đấy - vẫn biết rõ rằng chẳng có gì trong thế giới này cả, vẫn biết rõ rằng chỉ khổ sở đang chờ đợi đấy, cái chết. Nhưng đây là kiểu tâm trí của tôi. Tôi không thể tiếp tục được, tôi không thể kiên trì trong bất kì cái gì, cho nên trước khi thầy chọn cái gì đó, xin hãy nhớ điều này."
Thầy nói, "Thế thì sẽ rất khó nếu anh không thể kiên trì được, bởi vì sẽ cần có nỗ lực lâu dài để hoàn tác mọi điều anh đã làm trong quá khứ. Anh sẽ phải đi ngược lại. Đó sẽ là việc thoái lui lại. Anh sẽ phải quay lại khoảnh khắc anh được sinh ra, khi còn tươi mới, trẻ trung. Tươi mới đó sẽ phải được đạt lại lần nữa. Anh sẽ phải đi, không phải là về phía trước, mà là về phía sau - lại trở thành đứa trẻ. Nhưng nếu anh nói anh không thể kiên trì được và rằng trong vòng vài ngày anh sẽ trốn đi, thì khó đấy. Nhưng để ta hỏi anh một câu hỏi: anh đã bao giờ quan tâm tới cái gì đó sâu sắc tới mức anh bị cuốn hút hoàn toàn không?"
Anh thanh niên nghĩ và anh ta nói, "Có chứ, chỉ trong chơi cờ thôi, trò chơi cờ, tôi quan tâm lắm. Tôi thích cờ, và đó là điều duy nhất cứu tôi. Mọi thứ khác đều rơi rụng đi; chỉ mỗi cờ vẫn còn lại với tôi, và với nó tôi có thể trải qua thời gian bằng cách nào đó."
Thầy nói, "Thế thì cái gì đó có thể được làm. Anh đợi đấy." Thầy gọi người phụ việc và bảo anh ta đem tới một sư đã từng thiền trong mười hai năm ở trong tu viện, và bảo sư này đem ra bàn cờ.
Bàn cờ được đem ra; sư này tới. Ông ta đã quen chút ít với cờ, nhưng trong mười hai năm ông ta đã thiền trong phòng nhỏ. Ông ta đã quên mất thế giới và cờ và mọi thứ.
Thầy nói với ông ta, "Nghe đây, anh sư! - đây sẽ là trò chơi nguy hiểm. Nếu ông mà thua anh thanh niên này, kiếm có đây và ta sẽ chặt đầu ông, bởi vì ta không thích sư thiền - người đã thiền mười hai năm - mà lại thua một thanh niên thường. Nhưng ta hứa với ông, nếu ông chết dưới tay ta thì ông sẽ đạt tới cõi trời cao nhất. Cho nên đừng bị rối loạn."
Anh thanh niên bắt đầu có chút ít không thoải mái, và thế rồi thầy quay sang anh ta và nói, "Trông đấy, anh nói rằng anh bị cuốn hút trong chơi cờ, cho nên bây giờ hãy bị cuốn hút toàn bộ đi - bởi vì đây là vấn đề sinh tử. Nếu anh thua ta sẽ chặt đầu anh - và nhớ lấy, ta không thể hứa cõi trời cho anh được. Người này thì được, ông ta bằng cách nào cũng sẽ đi, nhưng ta không thể hứa cõi trời nào cho anh cả. Nếu anh chết địa ngục là chỗ cho anh - lập tức anh sẽ được đưa tới địa ngục thứ bẩy."
Trong một khoảnh khắc anh thanh niên nghĩ tới chạy trốn. Đây sẽ là trò chơi nguy hiểm rồi, và anh ta đã không tới đây vì điều này. Nhưng thế thì điều đó lại có vẻ nhục nhã; anh ta là võ sĩ đạo, con của chiến binh, và chỉ bởi vì cái chết, cái chết sắp xảy ra mà trốn sao, trốn chạy không có trong máu anh ta. Cho nên anh ta nói, "Được."
Trò chơi bắt đầu. Anh thanh niên bắt đầu run như chiếc lá trong cơn gió lớn, toàn thân lẩy bẩy. Anh ta bắt đầu vã mồ hôi, và mồ hôi lạnh lan khắp thân thể; anh ta bắt đầu ướt đẫm mồ hôi từ đầu tới lòng bàn chân. Đó là vấn đề sinh tử - và suy nghĩ dừng lại, bởi vì bất kì khi nào khẩn cấp như thế bạn không thể nghĩ được. Ý nghĩ chỉ dành cho giải trí. Khi không có vấn đề bạn có thể nghĩ; khi thực sự có vấn đề suy nghĩ dừng lại, bởi vì tâm trí cần thời gian, và khi khẩn cấp thì không có thời gian. Bạn phải làm cái gì đó ngay lập tức.
Mọi khoảnh khắc, cái chết đều đang tới gần hơn. Sư bắt đầu, và ông ta trông chân thành và bình thản tới mức anh thanh niên nghĩ, "Thôi, chết chắc rồi!" Nhưng khi ý nghĩ biến mất, anh ta trở nên bị cuốn hút toàn bộ trong khoảnh khắc đó. Khi ý nghĩ biến mất, anh ta cũng quên mất rằng cái chết đang chờ đợi mình - bởi vì cái chết nữa cũng là ý nghĩ thôi. Anh ta quên mất về cái chết, anh ta quên mất về cuộc sống, anh ta trở nên chỉ là một phần của trò chơi này, bị cuốn hút, hội nhập toàn bộ vào trong nó.
Dần dần, khi tâm trí biến mất hoàn toàn, anh ta bắt đầu chơi hay. Anh ta chưa bao giờ chơi theo cách đó. Lúc ban đầu sư thắng, nhưng trong vòng vài phút anh thanh niên bị cuốn hút, bắt đầu đi những nước hay, và sư bắt đầu thua. Chỉ khoảnh khắc tồn tại, chỉ hiện tại. Thế rồi không có vấn đề gì; thân thể trở nên ổn thoả, run rẩy dừng lại, mồ hôi bay hơi. Anh ta nhẹ như lông hồng, vô trọng lượng. Vã mồ hôi có tác dụng - anh ta trở nên vô trọng lượng, toàn thân được cảm thấy như nó có thể bay. Tâm trí anh ta không còn nữa. Cảm nhận trở nên rõ ràng, tuyệt đối rõ ràng, và anh ta có thể thấy trước, năm nước trước. Anh ta chưa bao giờ chơi hay thế. Đối thủ của trò chơi bắt đầu sụp đổ; trong vài phút đối thủ sẽ bị thua, và thắng lợi của anh ta là chắc chắn.
Thế rồi bỗng nhiên, khi mắt anh ta trong trẻo, tựa tấm gương, khi cảm nhận là sâu lắng, sâu sắc, anh ta nhìn vào sư kia. Ông ta hồn nhiên thế. Mười hai năm thiền - ông ta đã trở thành như bông hoa. Mười hai năm khổ hạnh - ông ta đã trở thành tuyệt đối thuần khiết. Không ham muốn, không ý nghĩ, không mục đích, không chủ định nào tồn tại với ông ta. Ông ta hồn nhiên như có thể... thậm chí trẻ con cũng không hồn nhiên được như thế. Khuôn mặt đẹp của ông ta, sự sáng sủa của ông ta, đôi mắt đầy trời xanh... Anh thanh niên này bắt đầu cảm thấy từ bi với ông ta - chẳng chóng thì chầy đầu ông ta sẽ bị chặt. Khoảnh khắc anh ta cảm thấy từ bi này, những cánh cửa không biết mở ra, và cái gì đó tuyệt đối không biết bắt đầu rót đầy tim anh ta. Anh ta cảm thấy phúc lạc thế. Trong khắp bản thể anh ta hoa bắt đầu rơi xuống. Anh ta cảm thấy phúc lạc thế... anh ta chưa bao giờ biết phúc lạc này, cái đẹp này, phúc lành này.
Thế rồi anh ta bắt đầu đi nước lạc một cách có chủ định, bởi vì ý nghĩ tới trong trí anh ta, "Nếu mình chết thì cũng chẳng có gì bị xáo động; mình chẳng có gì đáng giá cả. Nhưng nếu sư này bị chết thì cái gì đó đẹp đẽ sẽ bị phá huỷ; nhưng với mình, chỉ là sự tồn tại vô dụng..." Anh ta bắt đầu đi những nước lạc một cách có ý thức, để làm cho sư thắng. Vào khoảnh khắc đó thầy hất tung bàn cờ, bắt đầu cười và nói, "Không ai thua cả. Cả hai đều thắng."
Sư này đã trong cõi trời rồi, ông ta giầu có; không cần chặt đầu ông ta. Ông ta không bối rối chút nào khi thầy nói, "Đầu ông sẽ bị chặt." Không một ý nghĩ nảy sinh trong tâm trí ông ta. Không có vấn đề chọn lựa - nếu thầy nói thì nó sẽ là vậy, thế là được. Ông ta đã nói có với toàn thể trái tim. Đó là lí do tại sao không có vã mồ hôi, không run rẩy. Ông ta đã chơi cờ; chết không phải là vấn đề.
Và thầy nói, "Anh đã thắng, và thắng của anh còn lớn hơn thắng của sư này. Bây giờ ta sẽ điểm đạo cho anh. Anh có thể ở lại đây, và chẳng mấy chốc anh sẽ chứng ngộ."
Cả hai điều cơ bản đã xảy ra: thiền và từ bi. Phật đã gọi hai điều này là cơ sở: pragya và karuna, thiền và từ bi.
Anh thanh niên nói, "Xin thầy giải thích điều đó cho tôi. Cái gì đó đã xảy ra mà tôi không biết. Tôi đã được biến đổi hoàn toàn; tôi không còn là cùng người đã tới thầy vài giờ trước. Người đó đã chết rồi. Cái gì đó đã xảy ra - thầy đã làm phép màu."
Thầy nói, "Bởi vì cái chết sắp xảy ra thế, anh không thể nghĩ được, ý nghĩ đã dừng lại. Cái chết ở cận kề thế, suy nghĩ là không thể được. Cái chết gần thế, không có lỗ hổng giữa anh và cái chết, và ý nghĩ cần khoảng cách để di chuyển. Không có khoảng cách, cho nên suy nghĩ dừng lại. Thiền xảy ra một cách tự phát. Nhưng điều đó chưa đủ, bởi vì kiểu thiền xảy ra do khẩn cấp sẽ mất đi; khi sự khẩn cấp qua rồi thiền đó sẽ bị mất. Cho nên ta không thể hất bàn cờ đi vào khoảnh khắc đó, ta phải đợi.
"Nếu thiền thực sự xảy ra, dù nguyên nhân là bất kì cái gì, từ bi phải theo sau. Từ bi là việc nở hoa của thiền. Nếu từ bi không tới, thiền của anh bị sai lạc ở đâu đó.
"Thế rồi ta nhìn vào mặt anh. Anh đã tràn ngập với phúc lạc và mắt anh trở thành như phật. Anh đã nhìn vào sư này, anh đã cảm và anh đã nghĩ, 'Tốt hơn cả là hi sinh bản thân mình hơn là sư này. Sư này còn có giá trị hơn mình.'"
Đây là từ bi - khi người khác trở nên có giá trị hơn bạn. Đây là tình yêu - khi bạn có thể hi sinh bản thân mình vì người khác. Khi bạn trở thành phương tiện và người khác trở thành mục đích, đây là tình yêu. Khi bạn là mục đích và người khác được dùng như phương tiện, đây là thèm khát. Thèm khát bao giờ cũng tinh ranh còn tình yêu bao giờ cũng từ bi.
"Thế rồi ta thấy trong mắt anh từ bi nảy sinh, và thế rồi anh bắt đầu đi lạc nước chỉ để bị thua, để cho anh sẽ bị chết còn sư này được cứu. Vào khoảnh khắc đó ta đã hất tung bàn cờ. Anh đã thắng. Bây giờ anh có thể ở đây. Ta đã dạy cho anh cả thiền và từ bi. Bây giờ đi theo đường này và để chúng trở thành tự phát trong anh - không theo tình huống, không phụ thuộc vào bất kì sự khẩn cấp nào; nhưng chỉ là phẩm chất của bản thể anh."
Mang câu chuyện này đi cùng bạn, trong tim bạn; để nó trở thành nhịp đập của trái tim bạn. Được bắt rễ trong thiền, bạn sẽ có cánh của từ bi. Đó là lí do tại sao tôi nói rằng tôi sẽ cho bạn hai thứ: rễ ăn vào trong đất này và đôi cánh bay trong cõi trời kia. Thiền là đất này, nó là ở đây và bây giờ; chính khoảnh khắc này bạn có thể lan toả rễ của mình, làm điều đó đi. Và một khi rễ có đó, đôi cánh của bạn sẽ đạt tới bầu trời cao nhất có thể được. Từ bi là bầu trời, thiền là đất. Và khi thiền và từ bị gặp gỡ, vị phật được sinh ra.
Đi ngày càng sâu hơn vào trong thiền để cho bạn có thể đi ngày càng cao hơn trong từ bi. Rễ của cây càng ăn sâu đỉnh cây càng vươn cao hơn. Bạn có thể thấy cây, bạn không thể thấy được rễ, nhưng chúng bao giờ cũng theo tỉ lệ. Nếu cây đạt tới trời thì rễ phải đạt tới chính tận cùng của đất. Tỉ lệ là như nhau. Thiền của bạn càng sâu, cùng chiều sâu đó sẽ được đạt tới trong từ bi. Cho nên từ bi là tiêu chí. Nếu bạn nghĩ bạn có tính thiền và không có từ bi, thế thì bạn đang tự lừa mình đấy. Từ bi phải xảy ra, bởi vì đó là việc nở hoa của cây. Thiền chỉ là phương tiện hướng tới từ bi; từ bi là mục đích.
Làm cho bản thân bạn ngày một tỉnh táo hơn đi. Gọi tên bạn và trả lời, chỉ để tạo ra nhiều nhận biết hơn. Khi bạn thực sự trở nên nhận biết, bạn sẽ cảm thấy trào dâng mới của năng lượng. Từ bi sẽ xảy ra cho bạn, và với từ bi, có phúc lạc; với từ bi, có cái đẹp; với từ bi, có sức thuyết phục.