Thưa thầy kính yêu,
Tâm trí phương Tây hướng tới phân tích thế, bán cầu não trái - tâm trí phương Đông chính là cái đối lập, bán cầu phải trực giác. Phương Tây bị mê say bởi phương Đông và phương Đông bị mê say bởi phương Tây. Khối lượng tương đương của cả hai - đây có phải là sự hài hoà của trí huệ và siêu việt lên trên các đối lập không?
Prem Dhanesh này, siêu việt lên trên những cái đối lập không phải là hiện tượng số lượng, nó là cuộc cách mạng về chất lượng. Vấn đề không phải là về số lượng tương đương của cả hai; đó sẽ là giải pháp rất vật chất. Định lượng nghĩa là vật chất. Khối lượng tương đương của cả hai sẽ cho bạn chỉ dáng vẻ của sự tổng hợp nhưng không là sự tổng hợp thực - sự tổng hợp chết, không sống động, không thở, không với trái tim đang đập.
Sự tổng hợp thực là cuộc đối thoại: không phải số lượng bằng nhau của cả hai, mà là mối quan hệ yêu thương, mối quan hệ ta/người. Đó là vấn đề bắc cầu qua những cái đối lập, không gắn chúng với nhau ở một chỗ.
Cả hai đều quan trọng, quan trọng vô biên. Phân tích không thể bị bỏ đi và trực giác cũng không thể bị bỏ đi. Vứt bỏ phân tích và bạn trở thành nghèo nàn, đói kém, không mạnh khoẻ ở bên ngoài. Và khi người ta nghèo nàn, đói kém, không mạnh khoẻ bên ngoài, làm sao người đó có thể đi vào nội tâm được? Điều đó là không thể được.
Nghèo nàn bên ngoài ngăn cản cuộc hành trình nội tâm. Bạn bị ám ảnh thế bởi thức ăn, quần áo, chỗ trú ngụ, bạn không có thời gian và không gian để đi vào trong, để nghĩ về những điều cao hơn của cuộc sống.
Trong Upanishad có một câu chuyện hay. Svetketu, một thanh niên, quay trở về từ đại học đầy những tri thức. Anh ta là một sinh viên xuất sắc, anh ta đứng đầu đại học với mọi huân chương và mọi bằng cấp có thể có, sẵn có. Anh ta quay về nhà với niềm tự hào lớn lao. Bố già của anh ta, Uddalak, nhìn anh ta và hỏi anh ta một câu hỏi đơn giản. Ông ấy nói với anh ta, "Con đã về đầy ắp tri thức, nhưng con có biết người biết không? Con đã tích luỹ nhiều thông tin, tâm thức con đầy những trí tuệ vay mượn - nhưng tâm thức này là gì? Con có biết mình là ai không?" Svetketu nói, "Nhưng câu hỏi này chưa bao giờ được nêu ra trong đại học. Con đã học về Veda, con đã học ngôn ngữ, triết học, thơ ca, văn học, lịch sử, địa lí. Con đã học mọi gì sẵn có trong đại học, nhưng điều này không phải là chủ đề chút nào. Bố đang hỏi một câu hỏi rất kì lạ; không ai đã bao giờ hỏi con ở đại học. Điều đó không có trong chương trình học, nó không có trong bài học của con."
Uddalak nói, "Con làm một điều: nhịn ăn hai tuần, thế rồi ta sẽ hỏi con điều gì đó."
Anh ta muốn biểu lộ tri thức của mình, chỉ là ham muốn của thanh niên. Anh ta phải đã mơ rằng bố mình sẽ rất hạnh phúc. Mặc dầu người bố đã nói, "Đợi hai tuần và nhịn ăn," anh ta đã bắt đầu nói về điều tối thượng, về cái tuyệt đối, về Brahman.
Người bố nói, "Con đợi hai tuần đã, thế rồi chúng ta sẽ thảo luận về Brahman."
Nhịn ăn hai ngày, nhịn ăn ba ngày, nhịn ăn bốn ngày, và rồi người cha bắt đầu hỏi anh ta, "Brahman là gì?" Lúc ban đầu anh ta trả lời được chút ít, trích dẫn điều anh ta đã nhồi nhét, luyện thi, khoe khoang. Nhưng đến cuối tuần anh ta mệt mỏi, kiệt sức, đói tới mức khi người cha hỏi, "Brahman là gì?" anh ta nói, "Thôi cái điều vô nghĩa này đi bố ơi! Con đang đói đây, con chỉ nghĩ tới thức ăn thôi mà bố lại cứ hỏi con về Brahman là gì. Ngay bây giờ, ngoại trừ thức ăn thì không cái gì là Brahman ."
Người bố nói, "Vậy là toàn thể tri thức của con có đấy chỉ vì con không bị đói thôi. Bởi vì con đã được chăm sóc, thân thể con được nuôi dưỡng, dễ dàng cho con nói về triết học vĩ đại. Bây giờ mới là vấn đề thực. Bây giờ đem tri thức của con lại đây!"
Svetketu nói, "Con quên hết rồi. Chỉ còn mỗi một điều ám ảnh con: cơn đói, cơn đói - ngày tới ngày đi. Con không thể ngủ được, con không thể nghỉ được. Có lửa trong bụng con, con đang cháy đây, và con không biết gì hết cả. Con đã quên hết mọi thứ con đã học rồi."
Người bố nói, "Con ơi, thức ăn là bước đầu tiên hướng tới Brahman. Thức ăn là Brahman - annam brahma." Một phát biểu cực kì có ý nghĩa. Ấn Độ đã quên mất điều đó hoàn toàn. Annam brahma: thức ăn là Thượng đế, Thượng đế đầu tiên.
Nếu bạn vứt bỏ tâm trí phân tích, khoa học biến mất. Nếu bạn vứt bỏ tâm trí phân tích, bạn không thể thịnh vượng được; bạn nhất định là nghèo và đói, và bạn sẽ mất tiếp xúc đầu tiên của mình với Thượng đế.
Phương Tây đang trong tiếp xúc đó; không có gì sai về nó. Xu hướng này trong phân tích là một bước có ý nghĩa hướng tới việc biết Thượng đế. Tôi không chống lại nó. Nhưng người ta không nên dừng tại nó. Thức ăn không phải là giá trị tối thượng, nó là phương tiện để đạt tới cứu cánh. Và nếu bạn có cuộc hành hương mang tính thiền bạn bắt đầu biến đổi thức ăn thành lời nguyện.
Điều đó còn tuỳ. Hoạ sĩ ăn cùng thức ăn đó, nhưng nó trở thành bức tranh trong người đó. Nhà thơ cũng ăn cùng thức ăn đó, nó trở thành thơ ca trong người đó. Người yêu cũng ăn cùng thức ăn đó, nó trở thành tình yêu trong người đó. Kẻ giết người cũng ăn cùng thức ăn đó, nó trở thành việc giết người và huỷ diệt trong người đó. Alexander, Genghis Khan, Adolf Hitler, Phật Gautam, Jesus Christ và Krishna, họ không ăn loại thức ăn khác; thức ăn là như nhau, dù ít hay nhiều. Nhưng trong Adolf Hitler nó trở thành huỷ diệt, trong Phật Gautam nó trở thành từ bi. Thức ăn là năng lượng thô; vấn đề tuỳ ở cách bạn biến đổi nó. Bạn là máy biến đổi; bạn thực sự có ý nghĩa, không phải là cái bạn ăn.
Tiền bản không xấu trong thân nó. Đó là cách tiếp cận của tôi tới sự tồn tại: tiền là trung tính, điều đó tuỳ vào bạn. Trong tay của người hiểu biết, tiền cực kì đẹp. Nó có thể trở thành âm nhạc, nó có thể trở thành nghệ thuật, nó có thể trở thành khoa học, nó có thể trở thành tôn giáo. Không phải tiền là xấu đâu, chính là con người đấy. Người ngu, nếu người đó có tiền, không biết phải làm gì với nó; tiền của người đó tạo ra tham nhiều hơn. Tiền có thể giải phóng bạn khỏi tham, nhưng người ngu đổi tiền thành tham nhiều hơn. Nó trở thành giận dữ, nó trở thành dâm dục, nó trở thành thèm khát. Người ngu càng có nhiều tiền, người đó càng trở nên ngu hơn, bởi vì người đó trở thành mạnh hơn để làm những điều ngu.
Với trí huệ, mọi thứ được biến đổi thành trí huệ.
Tâm trí phân tích là không xấu, cách tiếp cận khoa học tới thực tại là không xấu - nhưng nó chỉ là phương tiện, nó không thể là cứu cánh được. Mục đích là tự biết mình, mục đích là để biết Thượng đế, mục đích là để biết cái vĩnh hằng, cái bất tử. Aes dhammo sanantano: đó là mục đích, để biết luật tối thượng tràn ngập, thấm khắp toàn thể sự tồn tại - bởi vì bằng việc biết nó, người ta được giải thoát. Chân lí giải thoát.
Phương Đông đã đóng góp lớn lao, vô cùng cho việc hướng tới mục đích tối thượng đó. Nhưng không có phương tiện, làm sao bạn có thể đạt được tới mục đích? Và không có mục đích phỏng có ích gì mà có mọi phương tiện? Đó là vấn đề đối thoại sâu sắc giữa Đông và Tây, nó là vấn đề hôn nhân, không phải là sự tổ hợp về lượng của hai cách tiếp cận khác nhau này, không nửa Đông, nửa Tây, không chút ít khoa học và chút ít tôn giáo. Cuộc sống con người không phải là toán học đó; nó là thơ ca.
Điều được cần tới là đối thoại, mối quan hệ ta/người, chuyện tình giữa Đông và Tây, sự ôm choàng sâu sắc. Vấn đề không phải là số lượng ngang nhau; toàn thể phương Tây và toàn thể phương Đông gặp gỡ và hội nhập vào nhau - không nửa Đông, nửa Tây - toàn thể phương Đông và toàn thể phương Tây tan chảy vào nhau trong mối quan hệ yêu thương sâu sắc. Chỉ thế thì sự tổng hợp thực, sự siêu việt của các đối lập, sẽ là có thể.
Khi hai người yêu gặp gỡ trong vui vẻ cực thích, có sự siêu việt. Hấp dẫn có đó: phương Đông cảm thấy bị phương Tây quyến rũ, phương Tây bị phương Đông quyến rũ, nhưng nguy hiểm là ở chỗ mọi người ở phương Tây, những người quá mê say với phương Đông sẽ vứt bỏ tính phương Tây, họ sẽ trở nên có tính phương Đông; và người bị mê say bởi phương Tây sẽ vứt bỏ tính phương Đông và sẽ trở nên có tính phương Tây. Cho nên không cái gì đã thay đổi; đã không có gặp gỡ, đã không có hội nhập, chỉ cùng vấn đề lặp lại. Mọi người đơn giản đã đổi chỗ của họ: bây giờ phương Đông đang đứng ở bán cầu não phương Tây và phương Tây đang đứng ở bán cầu não phương Đông. Bây giờ người phương Tây đang thiền còn người phương Đông đang học ở Oxford, ở Cambridge, ở Harvard, và trở thành nhà khoa học, nhà vật lí học. Điều này sẽ không có ích bởi vì không gặp gỡ nào xảy ra.
Nỗ lực của tôi ở đây không phải là để thay đổi tâm trí phương Tây thành tâm trí phương Đông, không phải là để thay đổi tâm trí phương Đông thành tâm trí phương Tây, mà để cho nơi đây là sự gặp gỡ của cả hai - không trong bộ phận mà trong toàn bộ. Và nhớ lấy, khi hai cái toàn thể gặp gỡ, nó trở thành một toàn thể. Khi hai cái toàn bộ gặp gỡ, nó trở thành một cái toàn bộ: điều đó là siêu việt. Nó đang được cần tới một cách khẩn thiết, bởi vì không có nó sẽ không có hi vọng cho nhân loại, không tương lai cho nhân loại.
Điều chúng ta đang cố gắng làm ở đây có tầm quan trọng mênh mông cho tương lai của con người. Nó không phải là thực nghiệm thường đâu - thực ra không có thực nghiệm nào khác quan trọng hơn thực nghiệm này. Bạn có thể không nhận biết rằng bạn đang tham gia vào cái gì đó có thể cứu được thế giới này. Bằng không phân chia giữa phương Đông và phương Tây sẽ giết chết nhân loại. Phương Đông nghèo, quá nghèo, và phương Tây đang trở nên giầu có, và vết nứt đang trở nên ngày một lớn hơn mọi ngày. Vết nứt này nhất định tạo ra, sớm hay muộn, cuộc chiến tranh thế giới thứ ba - điều sẽ mang tính huỷ diệt cho cả hai.
Trước khi nó xảy ra chúng ta phải lan toả một viễn kiến mới, chúng ta phải cho sinh thành một nhân loại mới, con người không Đông không Tây mà là cả hai cùng nhau đồng thời; không theo số lượng ngang nhau, không nửa Đông, nửa Tây - mà Tây đầy đủ, Đông đầy đủ.
Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi muốn trở thành một sannyasin, nhưng tôi không thể làm được bởi vì tôi đã là người thực hành Cơ đốc giáo. Làm sao tôi có thể chấp nhận được hai thầy? Và tôi có được phép hỏi các câu hỏi trước khi tôi trở thành sannyasin không?
Alexander này, không có vấn đề chấp nhận hai thầy. Vấn đề không phải là về thầy, đấy là vấn đề về buông xuôi. Nếu bạn buông xuôi theo Christ, bạn buông xuôi theo tôi rồi. Nếu bạn buông xuôi theo tôi, bạn buông xuôi theo Christ, theo Phật, theo Mahavira, theo Krishna rồi. Vấn đề là về buông xuôi. Bạn đang lấy câu hỏi từ đầu sai. Nếu bạn biết cách buông xuôi, thế thì mọi thầy đều là một. Thế thì bạn sẽ thấy Christ trong Phật, và Phật trong Christ.
Trái tim buông xuôi trở thành hài hoà sâu sắc tới mức nó có thể thấy rằng Krishna và Christ là không khác nhau. Chắc chắn ngôn ngữ của họ là khác - Krishna nói tiếng Phạn, Christ nói tiếng Aramaic. Chắc chắn họ dùng các biểu dụ khác nhau, các chuyện ngụ ngôn khác nhau. Họ là những ngón tay khác nhau nhưng đều trỏ tới cùng mặt trăng. Nếu bạn có thể thấy mặt trăng, bạn có còn lo nghĩ về ngón tay không? Nếu bạn có thể thấy mặt trăng, liệu bạn có bị ám ảnh bởi ngón tay không - liệu ngón tay đó là của Krishna hay Christ hay Phật hay Lão Tử? Có thành vấn đề gì? Một khi mặt trăng được biết tới, ngón tay bị quên đi. Trở nên bị ám ảnh quá nhiều với ngón tay là trạng thái bệnh hoạn. Người Hindu là ốm yếu, người Mô ha mét giáo là ốm yếu, người Ki tô giáo là ốm yếu. Họ đã trở nên bị quyến rũ quá nhiều, bị ám ảnh với ngón tay.
Chỉ có một mặt trăng, nhưng nó được phản xạ trong cả nghìn lẻ một cái hồ. Đừng trở nên gắn bó quá nhiều với sự phản xạ trong hồ, đừng trở nên quá bị gắn bó với hồ! Hồ không liên quan gì với trăng cả; cho dù hồ biến mất trăng vẫn còn. Hồ có thể trở nên bị khuấy động, sự phản xạ có thể bị mất, nhưng trăng vẫn có đó.
Vâng, có những cái hồ khác nhau, và chúng có các loại nước khác nhau. Hồ này thì mặn, hồ kia lại ngọt; hồ này có mầu lam nhạt, hồ khác lại có chút ít màu lục - vân vân, đại loại như vậy. Hồ này rất sâu. Hồ khác rất nông. Nhưng những khác biệt này không thể tạo ra khác biệt gì với trăng được phản xạ trong những cái hồ đó.
Nếu bạn thực sự là người thực hành Cơ đốc giáo bạn sẽ không ngần ngại cho dù một khoảnh khắc trong việc trở thành sannyasin. Bởi vì bạn ngần ngại, để tôi nói với bạn: bạn không là người thực hành Cơ đốc giáo đâu. Và bạn ngụ ý gì bởi "thực hành Cơ đốc giáo"? Bởi vì bạn chủ nhật nào cũng tới nhà thờ sao? Bởi vì bạn đọc Lời cầu nguyện Chúa Trời mọi đêm sao? Bởi vì bạn đọc Kinh Thánh hàng ngày trong một thời gian nào đó sao? Bạn ngụ ý gì bởi việc là người thực hành Cơ đốc giáo? Thế thì tại sao bạn ở đây? Để làm gì? Nếu bạn đã tìm thấy câu trả lời rồi, bạn đâu cần ở đây. Nếu bạn còn chưa tìm ra câu trả lời, nhớ lấy, bạn vẫn phải truy tìm, vẫn phải đi tiếp cuộc hành trình...
Tôi giơ tay ra và bạn nói, "Làm sao tôi có thể cầm tay của hai thầy được?" Bạn nghĩ bạn đang cầm tay của Christ sao? Nhìn lại đi! Tay bạn trống rỗng. Nếu bạn không thể cầm được tay của một thầy sống, làm sao bạn có thể cầm tay của một thầy đã ra đi từ hai nghìn năm nay rồi? Bạn thậm chí không thể chắc chắn được liệu người đó có tồn tại hay không. Có những người cứ cho rằng đấy chỉ là chuyện kể mà thôi, rằng chưa bao giờ có con người lịch sử như Christ. Có những người, các học giả lớn, những người nghĩ rằng đây chỉ là vở kịch dân gian cổ đại, toàn thể câu chuyện này về Jesus chưa bao giờ là thực tại.
Làm sao bạn sẽ vứt bỏ được những hoài nghi này? Và nếu bạn nhìn vào câu chuyện này, nó sẽ tạo ra cả nghìn lẻ một hoài nghi trong bạn. Jesus bước đi trên nước, Alexander này, bạn có thể thực sự tin được điều đó không? Và khi tôi nói "thực sự" tôi ngụ ý thực sự đấy. Bạn có thể thực sự tin vào điều đó được không - ai đó đi trên nước? Bạn có thể thực sự tin vào Jesus không, người chạm vào con mắt của người mù và cho chúng khả năng nhìn? Bạn có thể thực sự tin Jesus đem Lazarus trở lại cuộc sống từ cái chết không? Bạn có tin Jesus được sinh ra từ người mẹ đồng trinh không? Điều đó là có thể không? Bạn có tin rằng Jesus quay trở lại từ cái chết sau ba ngày, được phục sinh không?
Nhìn sâu xuống dưới đi: bạn sẽ có cả nghìn lẻ một hoài nghi. Thực ra, ngay cả việc tin vào thầy sống còn khó thế, làm sao tin được vào thầy đã chết? Và quanh thầy đã chết chuyện kể nhất định được các đệ tử tạo ra, từ ngu xuẩn của họ. Họ cứ tưởng rằng bằng việc tạo ra những câu chuyện này họ sẽ giúp cho thông điệp được lan toả. Và với thời đó điều đó có thể như vậy - đã có thời khi Jesus trở thành quan trọng chỉ bởi vì ông ấy được sinh ra từ người mẹ đồng trinh. Phật không được sinh ra từ người mẹ đồng trinh, Mahavira không được sinh ra từ người mẹ đồng trinh, Krishna không được sinh ra... Cho nên đó là điều gì đó hiếm hoi, duy nhất; không ai khác có thể tuyên bố điều đó, điều đó gây ấn tượng cho mọi người. Nhưng khi mọi người trở nên ngày một được giáo dục hơn, khi thông minh phát triển lên, khi mọi người ngày càng trở thành nhà tư tưởng nhiều hơn, cùng điều đó trở thành vấn đề. Bây giờ người ta thậm chí ngần ngại nhắc tới nó.
Phục sinh đã giúp cho Ki tô giáo lan tràn trên khắp thế giới, bởi vì Jesus là người duy nhất quay lại từ cái chết: tất nhiên, ông ấy có tri thức mắt thấy tai nghe về điều xảy ra sau cái chết. Phật, Mahavira, họ sống và nói về cái chết và cõi bên kia, nhưng họ không có kinh nghiệm đích thực nào. Jesus có. Điều này đã giúp cho Ki tô giáo lan tràn trên khắp thế giới. Nhưng bây giờ cùng điều đó đã trở thành nhược điểm. Bây giờ nói về phục sinh là bị cười ngay.
Bạn ngụ ý gì rằng bạn là người thực hành Cơ đốc giáo? Nếu bạn mà thực sự là người thực hành Cơ đốc giáo, chỉ có hai phương án: hoặc bạn đã không ở đây, sẽ không có nhu cầu; hoặc nếu bạn đã cảm thấy sự hiện diện của tâm thức Christ ở đây, thế thì sẽ không có ngần ngại về phần bạn trong việc trở thành sannyasin. Cái sẽ thực sự là việc trở thành người Cơ đốc giáo, cái đó sẽ là việc trở thành một christ.
Đừng là người Ki tô giáo; điều đó là không đủ. Chừng nào bạn chưa là một christ, không cái gì xảy ra cả. Thử là một christ đi, đừng là một người Ki tô giáo. Người Ki tô giáo chỉ là người tin, và người tin thì bao giờ cũng mù. Một christ có mắt. Và nhớ lấy, khi tôi dùng từ 'christ' tôi không chỉ ngụ ý Jesus. Christ là trạng thái của tâm thức tối thượng: ở phương Đông chúng ta gọi nó là trạng thái của vị phật, trạng thái của việc là một jina. Đây là cùng từ đó. Jesus chỉ là một trong các christ - Phật là người khác, Lão Tử là người khác, và có nhiều vậy, và sẽ có nhiều như vậy, và sẽ có nhiều người vậy. Đó là đoàn diễu hành của ánh sáng.
Và bao giờ cũng có christ ở chỗ nào đó này khác. Bạn có thể gọi ông ấy là vị phật, bạn có thể gọi ông ấy là christ; điều đó đơn giản tùy thuộc vào ngôn ngữ nào bạn dùng. Nhưng đừng là kẻ cuồng tín, đừng mang tính giáo phái; điều đó tạo ra tính ngu xuẩn, điều đó không giúp cho việc trưởng thành, nó không giúp cho việc đạt tới tâm thức thêm nữa.
Như một thực nghiệm, hai nhà khoa học quyết định giao phối đàn ông con người với con khỉ đột cái. Họ đồng ý ai đó thực sự ngu sẽ chịu làm hành động như vậy, cho nên họ đi xuống bến tàu và tóm được Fanelli vừa mới ra khỏi thuyền. "Chúng tôi sẽ cho anh năm nghìn đô la để lên giường với con khỉ độc," một trong các nhà khoa học đề nghị. "Anh sẽ làm điều đó chứ?"
"Được thôi, tôi làm điều đó," Fanelli đồng ý. "Nhưng với ba điều kiện."
"Điều kiện gì?" các nhà khoa học hỏi.
"Thứ nhất-a, tôi sẽ-a chỉ đi làm điều đó-a một lần thôi," người Italia nói. "Thứ hai-a, không ai-a được nhìn-a. Và-a thứ ba-a, nếu con sinh ra, nó-a phải được phong-a là người Cơ đốc giáo."
Alexander, đủ người Cơ đốc giáo rồi, đủ người Tin lành rồi, đủ người Hindu giáo và Mô ha mét giáo rồi.
Bây giờ được kết thúc với mọi cái vô nghĩa đó đi. Để nhân loại mới nổi lên, nơi người Do Thái và người Hindu và người Jaina và Phật tử sẽ không thường xuyên đánh nhau, cãi nhau, cố gắng phá huỷ lẫn nhau, cố gắng áp đặt ý tưởng riêng của mình lên người khác; nơi con người sẽ tự do chọn lựa. Bạn dường như không được tự do chọn lựa. Việc là người Cơ đốc giáo của bạn dường như giống xiềng xích vào chân bạn, việc là người Cơ đốc giáo của bạn dường như giống bức tường nhà tù quanh bạn. Bạn không tự do.
Bạn nói, "Tôi muốn là một sannyasin..." Thế thì ai ngăn cản bạn? Bạn muốn là sannyasin vậy mà việc là người Cơ đốc giáo của bạn ngăn cản bạn. Nó là bức tường, nó không phải là chiếc cầu.
Tôn giáo thực bao giờ cũng là chiếc cầu và không bao giờ là bức tường.
McGuinty ngồi ở phòng xưng tội. "Thưa cha," anh ta nói với linh mục, "Con không cảm thấy cần tha thứ cho các tội ngoại tình đa dạng của con."
"Sao không?" linh mục kinh ngạc hỏi.
"Thế này," McGuinty nói, "Mọi đàn bà có gia đình mà con có quan hệ đều là người Do Thái!"
"Ồ, con đúng rồi, con ta!" linh mục nói. "Giao cấu với người Do Thái là cách duy nhất."
Bạn được phép làm cùng điều với người Do Thái mà không được phép làm với người Ki tô giáo. Bạn được phép làm cái gì đó một cách hạnh phúc, đón chào, với người Mô ha mét giáo mà bạn không được phép làm với người Hindu giáo. Đây là loại tính tôn giáo gì vậy? Chúng ta đã tạo ra loại nhân loại gì vậy? Nó là thần kinh, nó là tâm thần. Chúng ta cần một nhân loại lành mạnh hơn.
Sannyasin của tôi không dính líu vào giáo phái; đây không phải là giáo phái bởi vì chúng ta không có ý thức hệ nào. Tôi không thuyết giảng ý thức hệ nào. Ngay cả người vô thần cũng có ở đây và họ là các sannyasins và họ không tin vào Thượng đế. Và tôi không làm điều đó thành yêu cầu cơ bản. Không có yêu cầu cơ bản nào, ngoại trừ khao khát của bạn về chân lí - nhưng điều đó không phải là điều làm bạn thành người theo giáo phái. Thực ra, cuộc truy tìm chân lí, khao khát chân lí, làm cho bạn thành tuyệt đối phi giáo phái.
Và người tôn giáo là người phi giáo phái. Người đó đơn giản mang tính tôn giáo - không là người Ki tô giáo, không là người Hindu giáo. Người đó không thể đảm đương là người Hindu giáo hay Ki tô giáo được. Làm sao bạn có thể đảm đương được việc bị giới hạn thế? Người đó không thể đảm đương được việc dính líu vào trong các định kiến; người đó không thể tin được vào những kết luận đã được người khác đưa tới. Người đó đang trên cuộc hành trình riêng của mình: người đó muốn biết chân lí bằng chính mắt mình, người đó muốn nghe thấy Thượng đế bằng chính tai mình, người đó muốn cảm thấy cuộc sống và sự tồn tại bằng chính trái tim của mình. Việc tìm kiếm của người đó là cá nhân.
Sannyasin không phải là một phần của giáo phái. Đây là gặp gỡ của các cá nhân; chúng ta đã gặp gỡ bởi vì chúng ta đang trên cùng một cuộc hành trình. Không có ý thức hệ gắn kết các sannyasin của tôi với nhau; chỉ bởi vì cùng việc truy tìm chân lí mà ngẫu nhiên chúng ta đã gặp nhau trên cùng con đường. Chúng ta là những bạn đồng hành. Không có gì gắn sannyasin này với sannyasin khác; không có tù túng về niềm tin, tín ngưỡng, kinh sách. Và thực ra các sannyasin không được kết nối với nhau trực tiếp chút nào - kết nối của họ là với tôi.
Sannyasin này được kết nối với tôi, sannyasin kia được kết nối với tôi, do đó họ được nối với nhau qua tôi. Không có tổ chức khác. Tôi vận hành chỉ như một trung tâm và họ tất cả đều được nối với tôi, do đó họ cảm thấy được nối với nhau.
Đó là cách công xã nảy sinh, tăng đoàn sangha được sinh ra. Công xã có thể sống động chỉ khi vị phật hiện diện, khi christ hiện diện. Một khi christ qua rồi, công xã biến mất và trở thành cộng đồng. Công xã biến mất và trở thành giáo phái. Tôi không muốn các sannyasin của tôi trở thành giáo phái.
Alexander này, bạn cũng hỏi, "Và tôi có được phép hỏi các câu hỏi trước khi tôi trở thành sannyasin không?"
Bạn đã hỏi câu hỏi rồi, và tôi đã trả lời nó rồi. Vâng, bạn tuyệt đối được đón chào. Thực ra, sau khi trở thành sannyasin sẽ ngày một khó mà hỏi câu hỏi hơn - chúng có vẻ ngu xuẩn thế. Bạn càng ở đây lâu, bạn càng ít hỏi. Và những người đã từng ở đây lâu nhất đã hoàn toàn quên mất hỏi cái gì. Đừng lo nghĩ về điều đó. Bạn có thể hỏi các câu hỏi chỉ vì câu hỏi mà thôi; bạn không cần là sannyasin.
Và thực ra tôi quan tâm nhiều tới các câu hỏi tới từ những người không là sannyasin, bởi vì thế thì tôi có thể dụ dỗ họ.
Con thỏ Nga chạy qua biên giới tại Brest và chỉ dừng lại khi con thỏ Ba Lan bảo đảm với nó rằng nó đang ở Ba Lan. "Sao cậu chạy?" con thỏ Ba Lan hỏi.
"Bởi vì chúng đang thiến tất cả lạc đà ở Nga," con thỏ Nga nói.
"Nhưng cậu đâu có là lạc đà, cậu là thỏ cơ mà!" "Vâng - nhưng chúng thiến trước rồi mới hỏi sau."
Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Trong tái sinh một phần của tôi, cái đã từng là tri thức, nhưng không được biết tới, đã xảy ra. Trước hết đã có đau và sợ, thế rồi bùng nổ trong tôi mà cảm thấy giống như con vật hoang dã, theo sau bởi sự giảm nhẹ và vui vẻ vô biên. Tôi cảm thấy rằng đám mây đen tôi đã mang một thời gian dài đã bay ra khỏi tôi. Vậy mà tôi vẫn không biết gì về tôi là ai. Xin thầy bình luận.
Prem Gyanam này, "Tôi là ai?" không thực sự là câu hỏi đâu; do đó nó không bao giờ có thể được trả lời, bởi người khác hay bởi bản thân bạn. Thế thì nó là gì? Nó là công án đấy. "Tôi là ai?" là tuyệt đối ngớ ngẩn. Bằng việc hỏi nó, đừng hi vọng rằng một ngày nào đó bạn sẽ nhận được câu trả lời. Nếu bạn cứ hỏi mãi, "Tôi là ai? Tôi là ai?" - nếu bạn làm nó thành việc thiền, như Raman Maharshi thường nói với đệ tử của ông ấy... Ông ấy hay cho mỗi một cách thiền đơn giản: cứ ngồi đấy và lẩm nhẩm, ban đầu nói to, thế rồi không to lắm, thế rồi chỉ trong cổ họng; thế rồi thậm chí cổ họng cũng không được dùng, chỉ sâu bên dưới trong tim bạn để nó vang vọng: "Tôi là ai? Tôi là ai?" Cứ hỏi mãi...
Và mọi người thường nghĩ rằng nếu họ tuân theo các chỉ dẫn đúng, một ngày nào đó đột nhiên họ sẽ biết câu trả lời. Điều đó không đúng đâu; bạn sẽ không bao giờ đi tới được câu trả lời. Nhưng bằng việc hỏi nó, trước tiên mọi câu trả lời của bạn mà bạn đã có trước đó, ý tưởng về bản thân mình, sẽ biến mất nữa.
"Tôi là ai?" giống như chiếc gai. Nó có thể lôi chiếc gai đang ở trong chân bạn ra. Bạn có thể dùng chiếc gai này; bạn có thể dùng chiếc gai này để nhể chiếc gai đã làm đau bạn ở chân. Khi cả hai chiếc gai ở ngoài rồi, bạn có thể vứt cả hai chiếc gai đó đi. Bạn không cần giữ chiếc thứ hai bởi vì nó đã là phúc lành thế cho bạn, nó lôi chiếc thứ nhất ra. Bạn không cần đặt nó vào chỗ đầu tiên để tôn kính, biết ơn.
"Tôi là ai?" chỉ là một phương cách tinh tế; nó cũng ngớ ngẩn như công án Thiền.
Các Thiền sư nói với đệ tử, "Đi và thiền: tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì?" Bây giờ, một bàn tay không thể vỗ được. Thầy biết điều đó, đệ tử biết điều đó - rằng một bàn tay không thể vỗ được - nhưng thầy cứ khăng khăng, "Thiền về nó đi. Phát rồ lên khi thiền - cứ hỏi và hỏi và hỏi mãi, và để cho câu hỏi đi sâu hơn và sâu hơn. để nó chìm vào trong tim ông, trong chính linh hồn ông."
Khi thầy nói, đệ tử phải làm điều đó. Khi thì mười năm, khi thì hai mươi năm trôi qua, và đệ tử cứ hỏi câu hỏi ngớ ngẩn này, vẫn biết hoàn toàn rõ rằng một bàn tay không thể vỗ được. Và thầy nói, "Nếu ông bắt gặp câu trả lời nào đó, đem tới cho ta." Và đôi khi đệ tử bịa ra câu trả lời, bởi vì anh ta phát mệt mỏi về câu hỏi này. Đôi khi anh ta hi vọng, "Có thể đây là câu trả lời," và anh ta đem nó tới cho thầy. Anh ta nói, "Âm thanh của nước chảy, đó là một bàn tay vỗ."
Và thầy đánh vào đầu anh ta bằng chiếc thiền trượng và nói, "Ông ngu thế! Đây không phải là câu trả lời. Về đi" - bởi vì âm thanh của nước chảy không phải là một bàn tay vỗ, âm thanh này là bởi vì đá. Bỏ đá đi và âm thanh sẽ biến mất. Cho nên có hai thứ chạm nhau, không phải là một thứ.
Thế là anh ta đi và anh ta thiền. Và trong khi thiền anh ta nghe thấy tiếng hót xa xăm của con chim cúc cu, và anh ta nghĩ "Nó đây rồi! Đây đích thị là nó rồi - hay thế, âm hưởng thế giới bên kia. Đây là nhạc tinh tú; đây phải là điều thực." Và anh ta chạy về, và lại bị đánh nữa.
Các Thiền sư thực sự là các chuyên gia về việc đánh... mà không chỉ đánh thôi; đôi khi còn ném bạn ra ngoài cửa sổ, đôi khi còn đóng cửa trước mặt bạn. Họ có thể làm bất kì cái gì để đánh thức bạn, từ bi của họ là như vậy. Và bạn lại được cho cú đánh đích đáng, và thầy mắng rằng bạn hoàn toàn ngu xuẩn: "Cái này không phải là nó. Lại đi nữa đi và thiền." Và cứ thế tiếp diễn, câu chuyện tiếp tục, tiếp tục, nhiều câu trả lời. Và không câu trả lời nào đã bao giờ được chấp nhận; không câu trả lời nào có thể được chấp nhận.
Đôi khi chuyện xảy ra, ngay trước khi đệ tử định nói câu trả lời mà mình có được, thầy bắt đầu đánh anh ta - bởi vì vấn đề không phải là câu trả lời nào anh ta đem tới; điều đó hoàn toàn không liên quan. Bất kì câu trả lời nào anh ta đem tới cũng đều sẽ sai. Mọi câu trả lời đều sai.
Nhưng một hôm anh ta tới và thầy ôm ghì lấy anh ta, bởi vì thầy có thể nhìn vào mắt anh ta, cách thức anh ta bước, vẻ duyên dáng bao quanh anh ta, bầu không khí anh ta đã mang cùng mình, sự im lặng: không câu hỏi, không câu trả lời. Không phải là anh ta đã mang tới câu trả lời nào; ngược lại, lần này anh ta đã tới cho dù không có câu hỏi, anh ta đã quên mất bản thân câu hỏi. Anh ta không hỏi gì nữa. Anh ta tới hoàn toàn im lặng, thậm chí không một gợn trong tâm trí mình. Và thầy nhận ra điều đó ngay lập tức.
Đôi khi điều xảy ra rằng đệ tử đã không xuất hiện và thầy phải đi tìm kiếm đệ tử, bởi vì anh ta cảm thấy sâu bên dưới trong tim mình rằng câu hỏi đã biến mất. Và bây giờ đệ tử cảm thấy, "Sao làm thầy bận tâm một cách không cần thiết? Phỏng có ích gì? Không có câu trả lời, không có câu hỏi." Và im lặng là tới mức, và nó mênh mông tới mức anh ta không muốn đi ra khỏi nó.
Và thầy tới và nói với anh ta, "Bởi vì ông có câu trả lời, ông làm gì ở đây? Sao ông không xuất hiện? Ta đã chờ đợi ông."
Một lần chuyện xảy ra:
Khi Rinzai sắp rời khỏi thầy - bởi vì thầy đã nói, "Ông phải đi hành hương ba năm, đi tới mọi chùa chiền và mọi tu viện " - và trước khi ông ta ra đi, thầy bắt đầu đánh ông ta. Rinzai nói, "Nhưng tôi đã không nói gì, tôi không làm gì cả. Đây là loại chia tay gì thế này? Tôi sẽ đi hành hương ba năm, đi bộ" - vào những ngày cổ đại đó, điều đó là nguy hiểm - "Tôi có thể quay lại, tôi có thể không quay lại."
Thầy nói, "Đó là lí do tại sao. Ta có thể không còn cơ hội nào khác để đánh ông. Ta nghi ngời. Ông đang ở ngay trên bờ của im lặng lớn lao giáng xuống. Ở ngay phần cuối cùng của câu hỏi, thậm chí chưa có 'Tôi là ai?' mà chỉ có dấu chấm hỏi ở đó. Và bất kì ngày nào nó sẽ biến mất, và thế thì không ai biết liệu ông sẽ tới hay ông có thể không tới. Và ta là một ông già; ta biết đi đâu để tìm và kiếm ông? Đây là cơ hội cuối cùng của ta để đánh ông - ta không thể bỏ lỡ nó!"
Và vâng, nó là vậy; đó là cơ hội cuối cùng. Rinzai quay về sau ba năm, nhưng ông ấy đã chứng ngộ. Ông ấy quay lại và tát thầy và nói, "Đồ bất lương! Thầy phải lắm. Chỉ một lần ta muốn đánh thầy. Thầy đã từng đánh ta ít nhất trong hai mươi năm. Chỉ một lần thôi...!"
Thầy cười và thầy nói, "Ông được quyền đánh. Ông có thể làm điều đó bất kì khi nào ông cảm thấy thích làm điều đó, nhưng nhớ rằng ta là người rất già."
Gyanam, bạn nói, "Vậy mà tôi vẫn không biết tôi là ai." Không ai đã từng biết. Thế thì cái gì là khác biệt giữa vị phật và bạn? Bạn cũng không biết mình là ai, vị phật cũng không biết ông ấy là ai - thế thì khác biệt là gì? Ông ấy không bị bận tâm bởi điều đó. Ông ấy cười vào nó, ông ấy coi như đương nhiên rằng cuộc sống là bí ẩn. Không có câu hỏi nào và không có câu trả lời nào.
Cuộc sống không phải là trò chơi hỏi-đáp. Nó không phải là câu đó cần được giải, nó là bí ẩn cần được sống.
"Bố ơi, con muốn vào đại học," Leon nói. "Con có biết ấy không?"
"Ấy á?"
"Con có biết ấy không? đi vào buồng tắm và nghĩ vài phút, và nếu con tìm ra ấy, bố sẽ cho con vào đại học."
Leon vào buồng tắm, nghĩ vài phút, bước ra rồi nói, "Bố ơi, con không biết ấy."
"Chắc chắn là con không biết ấy rồi. Đi ra phố kiếm việc làm và khi con tìm ra ấy bố sẽ cho con vào đại học."
Leon bỏ đi, đến quán rượu gần đó, và bắt đầu uống rượu. Anh ta gặp Alice, cô gái tóc vàng ngồi tại quán rượu. Không mấy chốc họ lên căn hộ của cô ấy. Sau vài chầu uống cô ấy nói, "Em xin lỗi em phải cởi vài thứ cho nó thoải mái."
Alice trở lại một chốc sau đó, hoàn toàn trần truồng. Leon nhìn cô ấy và nói, "Cái gì thế này?"
"Ấy đi."
"Nếu anh biết ấy thì anh đã ở đại học, không phải ở đây."
Bây giờ bạn nói cho tôi ấy. Đây là công án. Bố của cậu Leon này phải đã là một Thiền sư: ấy.
Bây giờ bạn hỏi, "Tôi là ai?" Bạn là bản thân bạn, bạn là bạn thôi, "Tôi là ai?" nghĩa là bạn đang hỏi về sự đồng nhất nào đó, liệu "tôi là A hay B hay C hay D." Bạn đơn giản là bản thân bạn! Bạn không thể là A được, bạn không thể là B được, bạn không thể là C được. Bạn chỉ là bản thân bạn, bạn không là cái gì khác. Cho nên không có cách nào trả lời nó.
Thế thì tại sao câu hỏi này được trao cho bạn? Câu hỏi này được trao cho bạn để cho nó có thể phá huỷ; nó giống như chiếc búa, nó có thể phá huỷ mọi sự đồng nhất cũ của bạn. Chẳng hạn, bạn nghĩ, "Tên tôi là Ram, cho nên tôi là Ram." Khi bạn hỏi, "Tôi là ai?" câu hỏi này sẽ phát sinh, "Thế Ram thì sao? Tôi là Ram!" Nhưng bạn có thể thấy rằng đấy chỉ là cái tên; nó không phải là thực tại của bạn, nó là cái tên được cho từ bên ngoài. Bố mẹ bạn đã gọi bạn là cái gì đó: họ đã gọi bạn là "Ram." Họ có thể gọi bạn là "Rahim," họ có thể cho bạn bất kì cái tên nào, và bất kì cái tên nào cũng đều có liên quan cũng như Ram, bởi vì bạn là thực tại vô danh. Cho nên hỏi, "Tôi là ai?" bạn sẽ quên sự đồng nhất này với Ram.
Thế rồi sâu bên dưới ai đó nói, "Tôi là người Jaina," "Tôi là người Hindu," "Tôi là người Do Thái." Điều đó nữa cũng là sự đồng nhất ngẫu nhiên - ngẫu nhiên của việc sinh - bạn không phải là nó. Làm sao bạn có thể là người Do Thái được? Là người Do Thái hay người Hindu nghĩa là gì? Chỉ mỗi điều bạn đã được nuôi lớn lên bởi người Hindu hay người Do Thái, có vậy thôi. Nếu con của người Do Thái bị đem đi khỏi gia đình nó và được nuôi lớn bởi người Hindu nó sẽ không bao giờ biết, không bao giờ mơ rằng nó là người Do Thái. Mặc dầu được sinh từ cha mẹ Do Thái nó sẽ không bao giờ trở nên nhận biết về điều đó - trừ phi nó được bảo. Nó sẽ nghĩ rằng nó là người Hindu. Nó thậm chí có thể đánh nhau với người Do Thái vì Hindu giáo, nó có thể giết người Do Thái vì Hindu giáo, không biết chút nào rằng bản thân nó là người Do Thái.
Bây giờ ở Ấn Độ có hàng triệu người Ki tô giáo. Họ nghĩ họ là người Ki tô giáo, nhưng họ bao giờ cũng sống ở đây; cha mẹ họ là người Hindu, cha mẹ của cha mẹ họ là người Hindu. Trong hàng thế kỉ họ đã người Hindu! Bây giờ họ đã bị hối lộ, bị làm cho tin, bị thuyết phục, bị cải đạo, và họ đã trở thành người Ki tô giáo. Họ có thể giết người Hindu; nếu nhu cầu phát sinh họ có thể đánh nhau.
Có hàng triệu người Mô ha mét giáo ở Ấn Độ; họ tất cả đều bị cải đạo một cách cưỡng bức. Ít nhất người Ki tô giáo đã được thuyết phục một cách tinh vi - nhưng hàng triệu người Hindu đã bị ép buộc dưới mũi dao găm. Sự chọn lựa là: "Anh có thể sống như người Mô ha mét giáo hoặc anh phải chết." Và ai muốn chết? Thèm khát cuộc sống sâu sắc tới mức sống vẫn còn tốt hơn, cho dù bạn phải sống như người Mô ha mét giáo thì vẫn được. Bây giờ hàng triệu người Mô ha mét giáo đó những người sống ở Ấn Độ về cơ bản vẫn mang dòng máu của người Hindu. Nhưng họ có thể giết người Hindu - họ đã từng giết hại - và họ đang bị giết hại bởi người Hindu. Người Hindu đang giết con cháu riêng của mình; bây giờ họ được gọi là người Mô ha mét giáo. Chỉ đổi mỗi cái nhãn thôi... và sự thay đổi lớn lao như thế xảy ra chỉ bởi việc thay đổi nhãn.
Khi bạn hỏi, "Tôi là ai?" bạn sẽ bắt gặp điểm đó. Bạn sẽ thấy rằng mình không là người Mô ha mét giáo không là người Hindu không là người Ki tô giáo; đây là những ngẫu nhiên của việc sinh, việc nuôi dưỡng. Nếu bạn được sinh ra ở Nga bạn sẽ không là người Hindu, người Ki tô giáo hay người Mô ha mét giáo; bạn sẽ là người cộng sản, người cộng sản thực hành - cũng như bạn là người Cơ đốc giáo thực hành bây giờ. Bạn sẽ phủ nhận Thượng đế, bạn sẽ phủ nhận lời cầu nguyện, bạn sẽ phủ nhận toàn thể tôn giáo - bởi vì nhà nước là mạnh, và không ai muốn chống lại nhà nước; điều đó là nguy hiểm.
Nhà nước chưa bao giờ mạnh như nó ở Nga ngày nay. Cá nhân chưa bao giờ bị thu gọn lại thành bất lực thế như người đó ở nước cộng sản. Người đó không thể cầu nguyện theo chọn lựa riêng của mình, người đó không thể đi nhà thờ hay đền chùa theo ý chí riêng của mình; nhà nước quyết định mọi thứ. Nếu nhà nước nói, "Cái này là vậy," thì cái này là vậy. Bạn không thể thách thức nhà nước được, bằng không thì hậu quả là lớn. Bạn sẽ bị tống vào tù hay bị đầy đi Siberia hay bạn có thể đơn giản bị giết chết. Hay, thậm chí còn nguy hiểm hơn, bạn có thể bị buộc phải sống trong bệnh viện tâm thần nơi bạn sẽ bị cho sốc điện, sốc insulin; bạn có thể bị tuyên bố là điên. Nếu bạn không là người cộng sản ở Nga thì bạn có thể bị tuyên bố là điên. Và bạn tuyệt đối bất lực; nếu bác sĩ nói bạn điên, bạn là điên. Không có cách nào tranh đấu với họ.
Mulla Nasruddin sắp chết, đang trên giường chết, gần như trong hôn mê. Bác sĩ tới thăm anh ta. Bác sĩ đang say; ông ấy bắt mạch anh ta nhưng không thấy mạch nào vì ông ta cần tay sai cách. Ông ta nhìn vào khuôn mặt Nasruddin và nói với vợ anh ta, "Tôi rất tiếc phải nói điều đó, nhưng chồng chị chết rồi."
Vào chính khoảnh khắc đó, Nasruddin mở mắt ra và nói, "Cái gì! Tôi còn sống đây này!"
Chị vợ nói, "Anh im đi. Ông ấy biết rõ hơn, ông ấy là bác sĩ, thạc sĩ y khoa, tiến sĩ, FRCS. Anh có thần kinh không mà dám phủ nhận người có quyền thế! Im đi!"
Đó là cách nó xảy ra ở nước Nga Xô viết: nếu nhà tâm lí nói bạn điên, bạn là điên. Bạn biết mình không điên, nhưng bạn hoàn toàn bất lực; con quỉ nhà nước to khổng lồ thế, và bạn bị kẹp trong răng của con quỉ này. Nếu như bạn được sinh ra ở Nga thì bạn sẽ không là người Cơ đốc giáo, bạn sẽ không là người Tin lành, bạn sẽ không là người Hindu, bạn sẽ không là người Mô ha mét giáo.
Khi bạn thiền về "Tôi là ai?" bạn sẽ bắt gặp điểm này, và nó sẽ biến mất. Và bạn sẽ càng đi sâu... thế thì những câu hỏi sâu sắc hơn sẽ tới: trước hết là xã hội học, thần học, rồi sinh học. Bạn có thân thể đàn ông hay thân thể đàn bà: câu hỏi sẽ nảy sinh, "Mình là đàn ông hay đàn bà?" Tâm thức không là cả hai. Tâm thức không thể là nam hay nữ. Tâm thức đơn giản là tâm thức; nó chỉ là khả năng của việc là nhân chứng. Không mấy chốc bạn sẽ vượt qua rào chắn đó nữa; bạn sẽ quên mất rằng bạn là đàn ông hay đàn bà.
Và cứ thế tiếp diễn. Khi mọi đồng nhất cũ bị bỏ đi, không cái gì còn lại, chỉ câu hỏi vang vọng trong im lặng: "Tôi là ai?" Câu hỏi này không thể tiếp diễn được, theo cách riêng của nó; nó cần câu trả lời nào đó, bằng không thì nó không thể còn dai dẳng mãi được. Một điểm tới khi việc hỏi trở thành ngớ ngẩn... câu hỏi cũng bay hơi. Đó là khoảnh khắc được gọi là tự biết - atmagyan. Đó là khoảnh khắc khi, không nhận câu trả lời nào, bạn đơn giản biết, bạn cảm thấy, mình là ai.
Prem Gyanam này, cứ truy tìm tiếp đi. Vài đám mây đen đã biến mất khỏi bản thể bạn: cảm thấy biết ơn. Có nhiều điều nữa; chúng tất cả đều phải biến mất. Đây là những đám mây đen - Cơ đốc giáo, Tin lành, Ki tô giáo, Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Jaina giáo, Phật giáo, cộng sản. Đây tất cả là những đám mây đen - Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh. Đây tất cả là những đám mây đen - da trắng, da đen, đàn ông, đàn bà, đẹp, xấu, thông minh, ngu đần. Đây tất cả đều là những đám mây đen! Bất kì cái gì mà bạn có thể trở nên bị đồng nhất thì đều là mây đen.
Để tất cả chúng ra đi. Cái bắt đầu đã xảy ra. Nhưng đừng trong vội vã và đừng chờ đợi bất kì câu trả lời nào - không có câu trả lời nào đâu. Khi mọi câu hỏi và mọi câu trả lời đã bị bỏ lại sau và bạn một mình, một mình toàn bộ, tuyệt đối im lặng, biết cái không, không nội dung, không đối thể để biết - sự thuần khiết đó của tâm thức, bầu trời tâm thức thuần khiết đó, đó là điều bạn là gì.
Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Cái gì là mối quan hệ giữa làm chủ trên cái ta và việc kiểm soát?
Divya này, chúng là những điều mâu thuẫn. Làm chủ trên cái ta không có cái ta trong nó; nó là vô ngã hoàn toàn. Quyền làm chủ có đó, nhưng không có cái ta để làm chủ; không có gì để làm chủ hay để được làm chủ, chỉ có duy nhất tâm thức thuần khiết. Trong sự thuần khiết đó bạn là một phần của Thượng đế; trong sự thuần khiết đó bạn là chúa tể của sự tồn tại. Nhưng không có cái ta.
Khi chúng ta nói "tự chủ" chúng ta đang dùng ngôn ngữ sai. Nhưng không gì có thể được làm bởi vì mọi ngôn ngữ đều sai ở những tầm cao đó; trong những khoảnh khắc của viên mãn đó không từ nào là thích hợp. Trong kiểm soát có cái ta. Trong kiểm soát có nhiều cái ta hơn bao giờ. Người không bị kiểm soát không có cái ta chừng nấy, không có bản ngã chừng ấy - làm sao người đó có thể có được? Người đó biết điểm yếu của mình.
Đó là lí do tại sao bạn sẽ bắt gặp một hiện tượng rất kì lạ: cái gọi là thánh nhân của bạn còn bản ngã nhiều hơn tội nhân. Tội nhân còn nhân bản hơn, khiêm tốn hơn; thánh nhân gần như phi nhân bản bởi vì sự kiểm soát của họ - họ nghĩ họ là siêu nhân. Bởi vì họ có thể kiểm soát bản năng của họ, họ có thể cứ nhịn ăn dài dài, họ có thể vẫn còn bị bỏ đói về dục trong nhiều năm hay cả đời họ, họ có thể vẫn còn thức trong nhiều ngày, không ngủ lấy một khoảnh khắc - bởi vì họ có thể có kiểm soát như vậy trên thân thể, trên tâm trí, điều đó tự nhiên cho họ bản ngã lớn lao. Nó nuôi dưỡng ý tưởng của họ rằng, "Tôi là ai đó đặc biệt." Nó nuôi dưỡng cho bệnh tật của họ.
Tội nhân khiêm tốn hơn. Người đó phải như vậy; người đó biết người đó không thể kiểm soát được cái gì. Khi giận dữ tới người đó trở thành cơn giận dữ. Khi tình yêu tới người đó trở thành tình yêu. Khi nỗi buồn tới người đó trở thành nỗi buồn. Người đó không có kiểm soát đối với xúc động của mình. Khi người đó đói người đó thực sự làm bất kì cái gì để kiếm thức ăn; cho dù người đó phải đánh cắp người đó sẽ làm điều đó. Người đó sẽ tìm mọi cách có thể.
Một câu chuyện Sufi nổi tiếng:
Mulla Nasruddin và hai thánh nhân khác đi hành hương về Mecca. Họ đi qua một làng, lúc đó là pha cuối của cuộc hành trình rồi. Tiền của họ gần hết; chỉ còn lại chút đỉnh. Họ mua cái kẹo có tên là halva, nhưng không đủ cho cả ba và họ quá đói. Phải làm gì đây? - và họ thậm chí không sẵn sàng chia nó ra bởi vì thế thì nó sẽ không thoả mãn được cho cơn đói của ai cả. Cho nên mọi người bắt đầu khoe khoang về bản thân mình rằng, "Tôi là quan trọng hơn cho sự tồn tại, cho nên cuộc sống của tôi phải được cứu."
Vị thánh thứ nhất nói, "Tôi đã nhịn ăn, tôi đã cầu nguyện trong nhiều năm rồi; không ai có mặt ở đây lại mang tính tôn giáo và thánh thiện hơn tôi. Và Thượng đế muốn tôi được cứu, cho nên halva phải được trao cho tôi."
Vị thánh thứ hai nói, "Vâng, tôi biết, ông là con người của khổ hạnh vĩ đại, nhưng tôi là học giả vĩ đại. Tôi đã nghiên cứu mọi kinh sách, cả đời mình tôi đã cống hiến cho việc phục vụ tri thức. Và thế giới không cần những người có thể nhịn ăn. Ông có thể làm được gì? - ông chỉ có thể nhịn ăn thôi. Ông có thể nhịn ăn trên trời! Thế giới cần tri thức. Thế giới còn dốt nát tới mức nó không thể xoay xở được nếu thiếu tôi. Halva phải được đưa cho tôi."
Mulla Nasruddin nói, "Tôi không phải là nhà khổ hạnh, cho nên tôi không thể tuyên bố có việc tự chủ nào. Tôi không phải là người thông thái lớn lao gì, cho nên điều đó nữa tôi cũng không thể coi là mình có được. Tôi là kẻ tội nhân bình thường, và tôi đã nghe nói rằng Thượng đế bao giờ cũng từ bi với tội nhân. Halva thuộc về tôi."
Họ không thể đi tới được kết luận nào. Cuối cùng họ quyết định rằng, "Cả ba chúng ta nên đi ngủ mà không ăn halva, và để cho bản thân Thượng đế quyết định. Cho nên bất kì ai được Thượng đế cho giấc mơ hay nhất vào buổi sáng giấc mơ đó sẽ là quyết định."
Đến sáng một thánh nhân nói, "Không ai có thể tranh giàng được với tôi thêm nữa. đưa halva cho tôi - bởi vì trong giấc mơ tôi đã hôn chân Thượng đế. Đó là điều tối thượng mà người ta có thể hi vọng - kinh nghiệm lớn lao nào hơn có thể có đó được?"
Nhà bác học, nhà học giả, người thông thái cười to và ông ấy nói, "Điều đó chưa là gì nhé - bởi vì Thượng đế đã ôm tôi và hôn tôi! Ông hôn chân Thượng đế sao? Ngài đã hôn tôi và ôm chầm lấy tôi! Halva đâu rồi? Nó thuộc về tôi."
Họ nhìn Nasruddin và hỏi, "Ông đã có giấc mơ gì?"
Nasruddin nói, "Tôi là kẻ tội nhân đáng thương, giấc mơ của tôi rất bình thường - rất bình thường, thậm chí không đáng kể ra. Nhưng bởi vì các ông cứ khăng khăng và bởi vì chúng ta đã thoả thuận, tôi sẽ kể cho các ông. Trong giấc ngủ của tôi Thượng đế xuất hiện và ông ấy nói, 'Con ngu thế! Con đang làm gì vậy? Ăn cái halva đi!' Thế là tôi đã ăn nó rồi - bởi vì làm sao tôi có thể phủ nhận mệnh lệnh của ngài được? Bây giờ không còn halva nữa!"
Tự kiểm soát cho bạn bản ngã tinh vi. Tự kiểm soát có nhiều cái ta trong nó hơn bất kì cái gì khác. Nhưng tự chủ lại là hiện tượng hoàn toàn khác; nó không có cái ta trong nó. Kiểm soát được trau dồi, được thực hành; bằng nỗ lực lớn bạn phải quản lí nó. Nó là nỗ lực lâu dài, thế rồi bạn đạt tới nó. Làm chủ không phải là việc được trau dồi, nó không để được thực hành. Làm chủ không là gì ngoài hiểu biết. Nó không kiểm soát chút nào.
Chẳng hạn, bạn có thể kiểm soát giận dữ, bạn có thể kìm nén nó, bạn có thể ngồi lên trên đỉnh nó. Không ai sẽ biết bạn đã làm gì, và bạn bao giờ cũng sẽ được mọi người ca ngợi rằng trong tình huống như vậy nơi mọi người sẽ trở nên giận dữ, bạn vẫn còn bình thản, bình tĩnh và mát mẻ. Nhưng bạn biết rằng mọi bình thản và mát mẻ đó chỉ trên bề mặt thôi: sâu bên dưới bạn đang sôi lên, sâu bên dưới có lửa, nhưng bạn đã kìm nén nó trong vô thức, bạn buộc nó chìm sâu vào vô thức của bạn và bạn ngồi trên nó như ngọn núi lửa, và bạn vẫn đang ngồi trên nó.
Con người của kiểm soát là con người của kìm nén. Người đó cứ kìm nén. Bởi vì người đó cứ kìm nén, người đó cứ tích luỹ mọi thứ sai. Toàn thể cuộc sống của người đó trở thành đồ đồng nát. Sớm hay muộn hơn, và nó sẽ sớm hơn chứ không muộn hơn, núi lửa sẽ bùng nổ - bởi vì bạn có thể kìm giữ đến một giới hạn nào đó bạn có thể chứa được. Bạn kìm nén giận dữ, bạn kìm nén dục, bạn kìm nén đủ mọi loại ham muốn, khao khát - bạn có thể cứ tiếp tục kìm nén được bao lâu? Bạn có thể chứa đựng chỉ chừng nấy thôi, rồi một ngày nào đó nó nhiều hơn mức bạn có thể kiểm soát được: nó bùng nổ.
Cái gọi là thánh nhân của bạn, những con người của tự kiểm soát, có thể bị khêu gợi rất dễ dàng. Chỉ cào chút xíu, chỉ gãi thôi, và bạn sẽ ngạc nhiên: con vật trồi ra ngay lập tức. Tính thánh thiện của họ thậm chí không sâu hơn làn da; họ đang mang nhiều quỉ trong họ, họ bằng cách nào đó xoay xở được. Và cuộc sống của họ là cuộc sống của khổ, bởi vì nó là cuộc sống tranh đấu thường xuyên. Họ là những người thần kinh và họ đang trên bờ của sự điên khùng, bao giờ cũng trên bờ vực. Bất kì cái gì nhỏ bé cũng đều có thể chứng tỏ là cọng rơm cuối cùng chất lên con lạc đà. Họ không mang tính tôn giáo trong cách nhìn cuộc sống của tôi.
Người tôn giáo không kiểm soát cái gì, người tôn giáo không kìm nén cái gì. Người tôn giáo hiểu, cố gắng hiểu, không kiểm soát. Người đó trở thành ngày một có tính thiền hơn: người đó quan sát giận của mình, dục của mình, tham của mình, ghen tị của mình, tính sở hữu của mình. Người đó quan sát mọi thứ độc hại này đang bao quanh bạn. Người đó đơn giản quan sát, cố gắng hiểu giận dữ là gì, và trong chính hiểu biết đó người đó siêu việt lên. Người đó trở thành nhân chứng, và trong việc chứng kiến của người đó giận dữ tan ra dường như mặt trời đã lên và tuyết đã bắt đầu tan ra.
Hiểu biết đem tới ấm áp nào đó; nó là việc mặt trời mọc bên trong bạn và băng bắt đầu tan xung quanh bạn. Nó giống như ngọn lửa bên trong bạn và bóng tối bắt đầu biến mất.
Con người của hiểu biết, của thiền, không phải là con người của kiểm soát - chính là cái đối lập. Người đó là người quan sát. Và nếu bạn muốn quan sát, bạn phải tuyệt đối vô phán xét. Người kiểm soát có tính phán xét, liên tục kết án, "Cái này sai"; liên tục tán dương, "Cái này thiện, cái này ác, cái này sẽ dẫn tới địa ngục, cái này sẽ dẫn tới cõi trời." Người đó thường xuyên phán xét, kết án, ca ngợi, chọn lựa. Con người của kiểm soát sống trong chọn lựa, còn con người của hiểu biết sống trong vô chọn lựa.
Chính nhận biết vô chọn lựa đem tới biến đổi thực. Và bởi vì không cái gì bị kìm nén, không bản ngã nảy sinh, không cái ta nảy sinh. Và bởi vì hiểu biết là hiện tượng chủ thể, bên trong, không ai biết về nó, không ai có thể thấy nó ngoại trừ bạn. Và bản ngã tới từ bên ngoài, từ người khác, điều họ nói về bạn: chính ý kiến của họ về bạn tạo ra bản ngã. Họ nói bạn thông minh, họ nói bạn thánh thiện thế, họ nói bạn ngoan đạo thế - và một cách tự nhiên bạn cảm thấy cao quí. Bản ngã là từ bên ngoài. Nó được người khác trao cho bạn. Tất nhiên, họ nói điều này ngay trước bạn và họ nói điều gì đó khác, chính cái đối lập, đằng sau lưng bạn.
Sigmund Freud hay nói rằng cho dù trong hai mươi bốn giờ bạn quyết định rằng mọi người trên trái đất sẽ chỉ nói chân lí, chỉ chân lí thôi, thế thì mọi tình bạn sẽ biến mất, mọi chuyện tình sẽ biến mất, mọi hôn nhân sẽ tiêu hao hết. Nếu một quyết định được đưa ra rằng toàn thể nhân loại sẽ thực hành chỉ chân lí mà không cái gì khác chỉ trong hai mươi bốn tiếng thôi... Khi một vị khách gõ cửa nhà bạn, bạn sẽ không nói, "Vào đi, xin chào, tôi đang đợi anh đây. Đã từ lâu lắm rồi tôi không gặp anh! Tôi đã khổ sở lâu thế. Anh đã ở đâu? Anh làm cho trái tim tôi thổn thức với vui vẻ." Bạn sẽ nói sự thực mà bạn đang cảm thấy. Bạn sẽ nói, "Đồ chó đẻ này lại tới rồi! Bây giờ làm sao gạt bỏ được đứa con hoang này đi?" Đó là sâu bên trong, cái bạn đang kiểm soát. Bạn sẽ nói điều đó cho ai đó khác đằng sau lưng.
Bạn quan sát bản thân mình, điều bạn nói với mọi người trực diện với họ và điều bạn nói đằng sau lưng họ. Điều bạn nói đằng sau lưng họ còn đúng hơn nhiều, gần với cảm giác của bạn hơn điều bạn nói trực diện. Nhưng bản ngã phụ thuộc vào điều mọi người nói với bạn, và nó rất mảnh mai - mảnh mai tới mức trên từng bản ngã cần phải viết: Cẩn thận nhẹ tay.
Pieracki, người Polack, Odum, người da đen, và Alvarez, người Mê xi cô, đều bị thất nghiệp và sống cùng nhau. Pieracki một đêm về nhà và công bố anh ta đã kiếm được việc. "Này, các cậu, đánh thức tớ sáng mai lúc sáu giờ nhé," anh ta nói. "Tớ phải ở chỗ làm việc lúc sáu rưỡi!"
Trong khi Pieracki ngủ, Odum nói với Alvarez, "Nó kiếm được việc bởi vì nó là người da trắng. Chúng ta không thể kiếm được việc bởi vì tôi da đen còn cậu da nâu."
Thế là trong đêm họ bôi xi giầy lên khắp người Pieracki. Thế rồi họ đồng ý đánh thức anh ta muộn.
Sáng hôm sau khi Pieracki tới chỗ làm việc, quản đốc nói, "Anh là ai?"
"Ông đã thuê tôi hôm qua rồi," anh ta đáp. "Ông đã bảo tôi đến đây lúc sáu rưỡi!"
"Tôi thuê người da trắng chứ - anh là người da đen!"
"Tôi đâu có da đen!"
"Có đấy, anh là da đen! Đi và soi gương mà xem!"
Người Polack chạy xô lại chỗ cái gương, nhìn vào mình và kêu lên, "Lạy Chúa tôi! Họ đã đánh thức người nhầm rồi!"
Bản ngã của bạn tuỳ thuộc vào tấm gương. Và mọi mối quan hệ đều vận hành như tấm gương, mọi người bạn gặp đều vận hành như tấm gương, và bản ngã này cứ kiểm soát.
Và tại sao nó lại kiểm soát ngay chỗ đầu tiên, Divya? Nó kiểm soát bởi vì xã hội đánh giá cao kiểm soát, bởi vì xã hội cho bạn nhiều bản ngã hơn nếu bạn kiểm soát. Nếu bạn tuân theo những ý tưởng của xã hội, đạo đức của họ, chủ nghĩa đạo đức của họ, các ý tưởng về thiêng liêng của họ, nó ca ngợi bạn ngày một nhiều. Ngày một nhiều người tới bày tỏ kính trọng với bạn; bản ngã bạn cứ đi lên ngày một cao hơn, bay cao hơn.
Nhưng nhớ lấy, bản ngã sẽ không bao giờ đem tới bất kì biến đổi nào cho bạn. Bản ngã là hiện tượng vô ý thức nhất đang xảy ra trong bạn; nó sẽ làm cho bạn ngày một vô ý thức hơn. Và người sống qua bản ngã gần như say với nó; người đó không trong ý thức của mình.
Fernando mới cưới vợ. Có một bữa tiệc đám cưới lớn và rượu chảy như nước. Mọi sự diễn ra tốt đẹp cho tới khi Fernando không thể nào tìm được cô dâu đẹp của mình. Sau khi tìm khắp trong đám khách, anh ta thấy cậu bạn thân của mình, Luis, cũng bị thiếu.
Fernando bắt đầu tìm kiếm trong khu nhà. Anh ta nhìn vào phòng cô dâu và phát hiện ra Luis đang làm tình với cô dâu của mình. Fernando đóng cửa nhẹ nhàng, và rón rén đi xuống cầu thang với khách khứa. "Lẹ lên! Lẹ lên! Mọi người lên mà xem!" anh ta kêu lên. "Luis say quá nên anh ta nghĩ anh ta là tôi!"
Bản ngã giữ bạn gần như trong trạng thái say. Bạn không biết mình là ai bởi vì bạn tin điều người khác nói về bạn. Và bạn không biết người khác là ai bởi vì bạn tin điều người khác nói về người khác. Đây là thế giới ảo tưởng rất giả tạo mà chúng ta đang sống trong đó.
Thức dậy đi! Trở nên ý thức hơn. Bằng việc trở nên ý thức hơn bạn sẽ trở thành người chủ của bản thể riêng của mình. Quyền làm chủ không biết gì tới cái ta, và cái ta không biết gì tới quyền làm chủ. Để cho điều đó là tuyệt đối rõ ràng cho bạn.
Và, Divya này, giáo huấn của tôi không phải là về tự kiểm soát, tự kỉ luật đâu. Giáo huấn của tôi là về tự nhận biết, tự biến đổi. Tôi muốn bạn trở thành bao la như bầu trời - bởi vì đó là điều thực sự bạn là.
Đủ cho hôm nay.
Xem Tập 4 – Quay về Mục Lục